Ở Việt Nam, trong khi giáo dục song ngữ đang phát triển mạnh trong khu vực giáo dục tư để phục vụ nhu cầu của nhóm thiểu số đặc quyền, câu chuyện giáo dục song ngữ cho nhóm thiểu số yếm thế, cụ thể là nhóm trẻ dân tộc thiểu số, vẫn còn nhiều bất cập.
Kết luận số 91- KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định nhiệm vụ đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Đây là một chính sách quan trọng, bởi lẽ nó không phải chỉ trực tiếp ảnh hưởng tới giáo dục mà còn tác động sâu rộng tới văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế. Chính sách này đương nhiên chuyển hệ thống giáo dục quốc dân từ đơn ngữ thành song ngữ. Trong bối cảnh Việt Nam có tới 54 dân tộc, trong đó một số dân tộc thiểu số có tiếng nói và chữ viết riêng, đặt ra nhiều câu hỏi về bình đẳng tiếp cận giáo dục và hố sâu ngăn cách giàu nghèo. Bài viết kỳ vọng cung cấp những thông tin cơ bản về giáo dục song ngữ để giúp độc giả, các bậc phụ huynh, nhà thực hành và quản lý giáo dục, người làm chính sách có thể tham khảo cho quan điểm riêng của mình về vấn đề này.
Hai nhóm thụ hưởng trái ngược
Có hơn 7.000 ngôn ngữ sống đang được sử dụng trên toàn thế giới, và theo các nhà nghiên cứu ước tính, có tới quá nửa dân số thế giới sử dụng nhiều hơn một ngôn ngữ1. Tình trạng sử dụng song ngữ hay đa ngữ là rất phổ biến. Không nhất thiết những ai sử dụng song ngữ đều cần được hưởng giáo dục song ngữ hay đào tạo theo chương trình giáo dục song ngữ. Ngược lại, có nhiều người theo học chương trình song ngữ, dù họ là người sử dụng đơn ngữ. Như cái tên của nó cho thấy, giáo dục song ngữ liên quan tới việc lựa chọn và sử dụng hai ngôn ngữ làm ngôn ngữ giảng dạy trong một phần hoặc toàn phần của chương trình giáo dục.
Đối với các quốc gia chọn một ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ (tiếng Anh, tiếng Pháp) là ngôn ngữ chính thức, như trường hợp Singparore, chương trình giáo dục quốc gia là chương trình song ngữ. Đối với các quốc gia khác, giáo dục song ngữ là lựa chọn cá nhân, của cộng đồng hoặc nhà nước và không dành cho nhóm người học đại trà thuộc nhóm đa số mà hầu như dành cho hai nhóm người học trái ngược: (1) nhóm thiểu số yếm thế trong xã hội và (2) nhóm thiểu số đặc quyền. Nhóm 1 thường bao gồm nhóm thiểu số ngôn ngữ (dân tộc thiểu số, dân nhập cư, thổ dân) có thu nhập và địa vị xã hội thấp nhất, trong khi đó nhóm 2 bao gồm nhóm dân cư có điều kiện kinh tế và địa vị xã hội cao. Giáo dục song ngữ được cung cấp cho nhóm 1 nhằm giảm thiểu những bất lợi về ngôn ngữ qua đó giúp trẻ dân tộc thiểu số hay nhập cư cải thiện thành tích học tập, có cơ hội học tập lớn hơn và thay đổi cuộc sống. Ngược lại, giáo dục song ngữ cho nhóm 2 lại gia tăng lợi thế tiếp cận giáo dục quốc tế chất lượng, phát triển năng lực và lợi thế cạnh tranh trên thị trường lao động, qua đó tiếp tục duy trì ưu thế. Không khó để thấy giáo dục song ngữ một mặt góp phần giảm bất bình đẳng giáo dục, mặt khác giúp cho nhóm đặc quyền ngày càng có nhiều lợi thế. Chính sách quốc gia thường tập trung vào nhóm thụ hưởng 1 vì công bằng và bình đẳng xã hội trong khi nhóm 2 thường là xuất phát từ khối giáo dục tư.
Sơ lược về giáo dục song ngữ
Trái với chúng ta thường nghĩ, giáo dục song ngữ có chiều dài lịch sử 5.000 năm có lẻ, gắn liền với lịch sử các cuộc di cư, các phong trào và biến động chính trị cũng như các chính sách đồng hóa tạo ra xã hội đa ngôn ngữ2. Ngôn ngữ được sử dụng trong giáo dục chính thống thường là ngôn ngữ của đa số thống trị, hiếm khi là ngôn ngữ của các cộng đồng thiểu số. Theo báo cáo xuất bản năm 2021 của Ngân hàng Thế giới, tính trung bình vẫn còn khoảng 40% học sinh ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình không được học bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình3. Thậm chí ở một số nước, con số này lên tới 90%4.
Việc không được học tập bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, nhất là trong những năm đầu tiên đi học, gây nhiều bất lợi cho trẻ em trong việc tiếp cận giáo dục và học tập lâu dài. Trẻ dân tộc thiểu số ngôn ngữ thường có kết quả học tập kém hơn nhiều so với mức trung bình chung5. Các lý do chính bao gồm: (1) loại chương trình học, ví dụ có chương trình học tiếng hay không, có chương trình song ngữ hay để học sinh tự bơi; (2) chất lượng giáo dục, bao gồm các yếu tố như ngôn ngữ giảng dạy, tình trạng song ngữ và thành phần dân tộc của giáo viên, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số trong lớp, hàm lượng văn hóa dân tộc thiểu số trong học liệu và môi trường nhà trường, vv.
Những lợi ích của việc học tập bằng ngôn ngữ mẹ đẻ đã được khẳng định nhiều năm qua với các kết quả nghiên cứu tổng hợp trong các báo cáo của Ngân hàng Thế giới, UNICEF, UNESCO và các chương trình giáo dục hòa nhập của nhiều quốc gia thu nhập trung bình và thấp. Việc học bằng tiếng mẹ đẻ, đặc biệt trong những năm đầu tiên, giúp trẻ dân tộc thiểu số dễ theo được chương trình học hơn, nắm bắt nội dung học tập tốt hơn, đồng thời muốn đến trường hơn. Công ước về Người thổ dân và bộ tộc năm 1989 đã công nhận tầm quan trọng và quyền được học bằng ngôn ngữ mẹ đẻ6.
Một cách đơn giản, theo phân tích của Colin Baker, khi trẻ bắt đầu đến trường đi học, các mối quan hệ mới xuất hiện và mô thức giao tiếp (nhà trường so với gia đình), quy ước, quy tắc, phương thức giáo dục thay đổi, khiến cho trẻ gặp nhiều khó khăn ngay cả với học sinh thuộc đa số ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ làm quen và tìm hiểu về môi trường mới mà nếu nó còn mới nữa thì trẻ hoàn toàn bơ vơ trên một lộ trình lạ lẫm. Kết quả học tập kém cỏi, không theo được nội dung bài học, ngày càng tụt lại phía sau, đúp lớp, bỏ học là những hậu quả dễ thấy. Báo cáo ‘The Loud and Clear’ của Ngân hàng Thế giới cũng đã khẳng định điều này. Giáo dục song ngữ, với việc sử dụng hai ngôn ngữ thay đổi, trong đó có tiếng mẹ đẻ của trẻ, dù ở mức độ khác nhau, sẽ giúp trẻ tự tin, hòa nhập và học tập tốt hơn.
Theo tổng hợp có tính hệ thống của Baker & Wright (2021), có nhiều dạng thức chương trình song ngữ thuộc hai nhóm giải pháp song ngữ mạnh (strong forms) và yếu (weak forms) để các nhà xây dựng chính sách và chuyên môn lựa chọn tùy theo mục đích và triết lý giáo dục của từng quốc gia và tùy theo thành phần học sinh theo đặc điểm phân bố dân cư và dân tộc. Về cơ bản có thể hiểu, đối với nhóm thiểu số yếm thế trong xã hội, có hai hình thức tổ chức giáo dục song ngữ chính
7: (1) song ngữ dựa trên ngôn ngữ mẹ đẻ, và (2) song ngữ nhúng (submersion).
Với loại thứ nhất, chương trình được thiết kế với ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng dân tộc thiểu số (L1) được dùng làm ngôn ngữ giảng dạy ở những năm đầu tiên hoặc toàn bộ cấp tiểu học, sau đó được dịch chuyển sang việc dùng ngôn ngữ thứ hai (L2), thường là ngôn ngữ chính thức, ngôn ngữ quốc gia. Thời lượng L1/L2 trong toàn bộ chương trình phổ thông và cách chuyển dịch từ L1 sang L2 tạo thành các biến thể khác nhau của hình thức này. Mô hình song ngữ này đang được sử dụng nhiều ở các quốc gia thu nhập trung bình và thấp; kết quả nghiên cứu, đánh giá cho thấy hình thức này có nhiều lợi ích cho người học
8.
Loại 2, ngược lại, chỉ dùng ngôn ngữ L2 làm ngôn ngữ giảng dạy, để học sinh được nhúng toàn bộ trong môi trường L2 khi học cùng các học sinh thuộc nhóm đa số. Có nhiều hình thức hỗ trợ nhóm học sinh thiểu số như các chương trình ESL (học ngôn ngữ L2) xen kẽ trong chương trình chung.
Thực tiễn giáo dục song ngữ ở Việt Nam Giáo dục song ngữ đang phát triển mạnh trong những năm gần đây trong khu vực giáo dục tư với sự ra đời các trường quốc tế và trường chất lượng cao để phục vụ nhu cầu của nhóm thiểu số đặc quyền. Các ngôn ngữ trong các chương trình song ngữ này thường là tiếng Việt và tiếng Anh (chiếm phần lớn), hoặc tiếng Pháp, Nhật (chiếm số ít).
Trong khi đó câu chuyện giáo dục song ngữ cho nhóm thiểu số yếm thế, cụ thể là nhóm trẻ dân tộc thiểu số (theo Niên giám thống kê 2022 – Tổng cục Thống kê Việt Nam, tổng số học sinh dân tộc thiểu số ở bậc phổ thông là gần 2.980.000 trên tổng số học sinh phổ thông cả nước là gần 18 triệu, chiếm khoảng 16%) vẫn luôn là vấn đề nhức nhối khi về cơ bản, trẻ em dân tộc thiểu số không được hưởng giáo dục song ngữ và tỷ lệ bỏ học, đúp lớp, không biết chữ ở nhóm học sinh dân tộc thiểu số Mông, Dao, Khmer vẫn ở mức cao.
Cụ thể, theo báo cáo Giáo dục Việt Nam 2022 của UNICEF dựa trên số liệu khảo sát
9 do Tổng cục Thống kê và UNICEF thực hiện năm 2021, tỷ lệ trẻ em thuộc các dân tộc thiểu số Khmer, Mông và các dân tộc thiểu số dưới 1 triệu dân, không đi học ở bậc THCS và THPT cao hơn rất nhiều so với nhóm Kinh – Hoa, Tày, Thái, Mường, Nùng. Tính chung trong độ tuổi từ 6 đến 17 (độ tuổi học phổ thông chuẩn), tỷ lệ trẻ không đi học ở các dân tộc thiểu số Khmer, Mông và các dân tộc ít người khác cao gấp bốn đến bảy lần so với trẻ thuộc nhóm người Kinh – Hoa, Tày, Thái, Mường, Nùng. Càng lên bậc học cao hơn, trẻ dân tộc rất ít người càng có tỉ lệ hoàn thành chương trình phổ thông thấp. Chỉ có xấp xỉ 60% học sinh dân tộc Khmer, Mông, và các dân tộc thiểu số ít và rất ít người hoàn thành THCS, thấp hơn rất nhiều so với nhóm Kinh – Hoa, Tày, Thái, Mường, Nùng với trên 90% hoàn thành bậc học này. Riêng ở bậc THPT, chỉ khoảng 20% học sinh nhóm dân tộc thiểu số Khmer, Mông hoàn thành, trong khi con số trung bình ở các nhóm học sinh người Kinh – Hoa, Tày, Thái, Mường, Nùng rơi vào khoảng 50-60%.
Trước 2020, đã có một số nỗ lực triển khai giáo dục song ngữ ở bậc mầm non cho trẻ dân tộc thiểu số được tài trợ bởi các tổ chức quốc tế như UNICEF, Aide et Action
10 ở quy mô thí điểm tại một số tỉnh. Mô hình song ngữ được UNICEF đề xuất, hỗ trợ kỹ thuật để phát triển và triển khai ở Việt Nam là mô hình song ngữ chuyển tiếp – song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ, theo đó trẻ dân tộc thiểu số được học bằng tiếng mẹ đẻ từ mầm non đến hết tiểu học; tiếng Việt được đưa vào làm ngôn ngữ giảng daỵ từ lớp Ba và đến lớp Năm, trẻ được kỳ vọng thành thạo cả tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số của mình.
Tuy nhiên, kể từ 2020, với việc triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018, các nỗ lực nhân rộng chương trình song ngữ có nguy cơ bị gián đoạn do nguồn lực đang được tập trung vào việc triển khai chương trình. Đặc biệt, thiết kế của chương trình phổ thông mới chứa nhiều yếu tố bất lợi cho giáo dục song ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số
11.
Hành lang pháp lý cho giáo dục song ngữ vẫn chưa sẵn sàng; chính sách quốc gia về ngôn ngữ dân tộc thiểu số và giáo dục song ngữ cho nhóm yếu thế còn thiếu vắng; chương trình giáo dục phổ thông hiện tại không dung nạp giáo dục song ngữ là những nguyên nhân chính khiến cho nhóm học sinh người dân tộc thiểu số ngày càng có nguy cơ bị bỏ lại phía sau. Việc sử dụng tiếng Anh chính thức trong nhà trường chắc chắn gây bất lợi chồng chất cho nhóm người học này. Do vậy, giáo dục song ngữ cho nhóm thiểu số ngôn ngữ cần phải là nhiệm vụ được ưu tiên thực hiện. Giải pháp và lộ trình triển khai tiếng Anh để giảng dạy trong trường học bên cạnh tiếng Việt nhất thiết không thể bỏ qua nhóm học sinh dễ bị tổn thương này. Đồng thời, một chính sách ngôn ngữ rõ ràng trong đó nêu vị trí của tiếng Anh và các tiếng dân tộc thiểu số là vô cùng cần thiết vì sự phát triển một xã hội đa bản sắc, vì công bằng và ổn định xã hội.
-----
(1) Grosjean F. The Extent of Bilingualism. In: Life as a Bilingual: Knowing and Using Two or More Languages. Cambridge University Press; 2021:27-39.
(2) Baker, C & Wright, W.E. (2021). Foundations of Biingual Education and Bilingualism, 7th edition.
(4) UNESCO. (2016). Place: Inclusive and sustainable cities. In Global Education Monitoring Report 2016.
(5) Baker, C & Wright, W.E. (2021). Foundations of Biingual Education and Bilingualism, 7th edition.
(6) UNESCO. (2020). Inclusion and Education: All means all. In Global Education Monitoring Report 2020 (3rd ed.). Paris: UNESCO.
(7) Chi tiết về những biến thể của giáo dục song ngữ không nằm trong phạm vi trình bày của bài viết này.
(8) Nakamura, P., Molotsky, A., Zarzur, A. C., Ranjit, V., Haddad, Y., & de Hoop, T. (2023). Language of instruction in schools in low- and middle-income countries: A systematic review. Campbell Systematic Reviews(19:e1351). Retrieved from
https://doi.org/10.1002/cl2.1351
(10) Dự án ‘Nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số và khó khăn tại Lai Châu’ được tài trợ bởi Aide et Action International; Chương trình Giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ dành cho trẻ em người dân tộc thiểu số do UNICEF hỗ trợ.
Bài đăng KH&PT số 1327 (số 3 đến số 5/2025)