Sử dụng dữ liệu đáng tin cậy và phương pháp tiếp cận phù hợp với tình hình Việt Nam, một nghiên cứu mới đã ước tính chi phí đào tạo ở đại học công lập Việt Nam dao động từ 4,9 triệu đồng đến 18,1 triệu đồng/sinh viên. Đơn giá tổng thể ở Việt Nam được đánh giá là rất thấp so với chuẩn quốc tế, ngay cả khi so với các nước láng giềng tương đương.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành công đáng kể trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Việt Nam vẫn còn một số lĩnh vực chưa theo kịp tốc độ phát triển chung. Một trong số đó là giáo dục đại học, với xếp hạng quốc tế còn thấp so với nhiều quốc gia và nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng của sinh viên ra trường còn kém và thiếu kỹ năng làm việc. Để thúc đẩy sự tăng trưởng của lĩnh vực này, Chính phủ Việt Nam đang rất nỗ lực xây dựng các kế hoạch cải cách mang tính hệ thống.

Chi phí đào tạo thấp nhất thuộc về ngành Kinh tế và ngành Luật và cao nhất là ngành Y Dược. Trong ảnh: Sinh viên Trường ĐH Y Hà Nội trong giờ học giải phẫu.Nguồn: nhandan.com.vn

Đáng chú ý có hai dự án lớn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được Ngân hàng Thế giới tài trợ là Dự án Giáo dục Đại học 1 (Higher Education Project 1 - HEP1) và Dự án Giáo dục Đại học 2 (Higher Education Project 1 - HEP2). Trong đó, HEP2 hướng tới cải thiện chất lượng giảng dạy và nghiên cứu để gia tăng tỉ lệ có việc của sinh viên và mức độ thực tiễn của nghiên cứu tại trường đại học.

Nghiên cứu của hai tác giả Phạm Vũ Thắng (ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội) và Trần Nam Bình (ĐH New South Wales, Úc) tập trung vào yếu tố tài chính của HEP2 với mục đích chính là xác định mức độ chi phí đơn vị (CPĐV, hay chi phí đào tạo trung bình cho mỗi sinh viên) của các trường đại học công lập ở Việt Nam.

CPĐV được coi là một chỉ số quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo các trường đại học tham khảo khi ra quyết định phân bổ ngân sách nhà nước, học phí hoặc tự chủ tài chính.

Kết quả của nghiên cứu được công bố trên trên tạp chí “Educational Research for Policy and Practice” (Q2 Scopus và được chỉ mục trong ESCI với CiteScore 1.4). Sau khi cân nhắc giữa các phương pháp đã và đang được sử dụng, nhóm tác giả chọn cách tiếp cận theo định nghĩa (definitional approach) để ước tính CPĐV. Dựa trên định nghĩa kinh tế của chi phí trung bình là lấy tổng chi phí chia cho sản phẩm đầu ra, phương pháp này không đòi hỏi quá nhiều dữ liệu và không cần đến giả định về một thị trường giáo dục cạnh tranh tự do, do đó phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam và cho phép việc so sánh giữa các ngành đào tạo. Tổng chi phí và tổng sản lượng giáo dục được tính riêng biệt, trong đó chi phí được đo lường theo chi phí cơ hội gồm cả chi phí thuê đất. Để tính đầu ra đào tạo, số lượng sinh viên các chương trình trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ được quy đổi chung về số lượng sinh viên đại học chính quy dựa trên hệ số được quy định trong Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ.

Chi phí đào tạo của các trường đại học công lập ở Việt Nam dường như rất thấp theo tiêu chuẩn quốc tế - chưa bằng một nửa các nước tương đương như Thái Lan (814 USD), Indonesia (682 USD); và chỉ bằng khoảng 3% chi phí ở Singapore (10.557 USD) hay Úc (11.101 USD).

Dữ liệu được lấy từ nhiều nguồn dữ liệu thứ cấp mà Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Thế giới đã công bố, cũng như thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 60 trường đại học. Mẫu nghiên cứu thể hiện được sự đa dạng về nhóm ngành, cơ quan quản lý, tuổi đời, quy mô và vị trí địa lý. Mặc dù số liệu từ năm 2010 nhưng cần lưu ý là bộ dữ liệu định lượng như thế này rất khó có được ở Việt Nam; hơn nữa, việc cải cách các trường đại học công lập ở Việt Nam diễn ra rất chậm nên số liệu năm 2010 phần lớn vẫn còn phù hợp.

Theo bảng ước tính, rõ ràng việc tính cả phí thuê đất đã làm tăng CPĐV chung lên gần 46%, từ 6,04 triệu đồng (325 USD) lên 8,81 triệu đồng (473 USD) mỗi năm.

Bảng 1. Mức học phí và chi phí đơn vị ước tính theo ngành học ở đại học công lập Việt Nam (2010, đơn vị: triệu đồng)

Có sự khác biệt đáng kể về CPĐV giữa các ngành, thấp nhất thuộc về ngành Kinh tế và ngành Luật với chi phí dịch vụ thực tế hằng năm là 4,85 triệu đồng (không tính chi phí đất) hoặc 6,29 triệu đồng (tính chi phí đất) vì khối ngành này có thể được dạy với quy mô lớp học lớn mà không đòi hỏi nhiều trang thiết bị và phòng thí nghiệm. Trong khi đó, không ngạc nhiên khi ngành đắt nhất là ngành Y Dược với phí dịch vụ hằng năm là 18,09 triệu đồng (không tính chi phí đất) hoặc 34,75 triệu đồng (tính chi phí đất), gấp ba lần so với khối ngành Kinh tế và Luật.

Rất khó để đặt Việt Nam lên bàn cân so sánh một cách chặt chẽ với các nước khác, chủ yếu là do thiếu dữ liệu. Nhóm tác giả sử dụng số liệu năm 2010 về chi tiêu công cho mỗi sinh viên đại học ở một số quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương (cần lưu ý rằng số liệu này của chung bậc đại học chứ không riêng các trường công lập, và chi tiêu công cho mỗi sinh viên thường thấp hơn rất nhiều so với CPĐV). Mặc dù thế, rõ ràng đơn giá tổng thể của các trường đại học công lập ở Việt Nam dường như rất thấp theo tiêu chuẩn quốc tế, chỉ cao hơn Campuchia (218 USD) nhưng chưa bằng một nửa các nước tương đương như Thái Lan (814 USD), Indonesia (682 USD); và chỉ bằng khoảng 3% chi phí ở Singapore (10.557 USD) hay Úc (11.101 USD).

Dựa vào kết quả này, có thể thấy, để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu cũng như xếp hạng quốc tế, Việt Nam cần phân bổ một lượng đáng kể các nguồn lực bổ sung cho các trường đại học công lập. Trong điều kiện Nhà nước khó duy trì đóng góp từ ngân sách, điều này ngụ ý rằng các hộ gia đình được kỳ vọng sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc chia sẻ chi phí đào tạo đại học.

Sử dụng dữ liệu về GDP đầu người, chi phí đầu tư trên đầu sinh viên của nhà nước, học phí trung bình ở các trường công ở 30 nước trên thế giới, TS Phạm Hiệp - Giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục EdLab Asia, và các cộng sự từng tính ra con số chi phí hợp lý ở Việt Nam trong năm 2013 là 56 triệu đồng/sinh viên (hay 1.900 USD, tương đương 138% GDP đầu người) và năm 2018 là 61 triệu đồng/sinh viên (hay 2.760 USD, tương đương 118% GDP đầu người). Trong khi, theo Báo cáo “Vốn nhân lực Việt Nam”, con số này vào năm 2013 mới đạt gần 26 triệu đồng/sinh viên, bao gồm cả đầu tư của Chính phủ và hộ gia đình. Khảo sát do nhóm nghiên cứu của TS Hiệp thực hiện cho thấy, chỉ có một số chương trình tại các đại học tư như ĐH FPT, ĐH Hoa Sen…, các đại học quốc tế như ĐH RMIT Việt Nam hoặc chương trình tiên tiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có mức chi phí đơn vị tương đương hoặc hơn so với mức hợp lý mà nhóm ước tính.

Nguồn tham khảo:
Pham, V. T., & Tran-Nam, B. (2020). Estimating unit cost of public university education in Vietnam. Educational Research for Policy and Practice. doi:10.1007/s10671-020-09280-8