Việc cắt giảm mạnh tay chưa từng có các khoản tài trợ cho khoa học của chính phủ Mỹ không chỉ là bi kịch đối với các trường đại học nghiên cứu lớn, mà còn đe dọa vị thế dẫn đầu của quốc gia này trong nhiều lĩnh vực.
Những bất ngờ ngoài dự đoán
Nhiều nhà khoa học Mỹ đã dự đoán trước rằng nhiệm kỳ thứ hai của Donald Trump sẽ gây khó khăn cho các trường đại học nghiên cứu ở quốc gia này ngay từ khi ông còn đang chạy chiến dịch tranh cử. Tuy nhiên, những cuộc tấn công liên tục của chính quyền Trump vào nguồn tài trợ cho khoa học của liên bang vẫn gây bất ngờ: hơn 2.000 khoản tài trợ, trị giá gần 10 tỷ USD, bị hủy bỏ với lý do chúng đi ngược lại chương trình nghị sự chấm dứt kế hoạch chiến lược Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) của chính quyền Biden (thay vào đó, đặt năng lực lên hàng đầu).
Chưa kể đến quyết định đình chỉ cấp thị thực cho sinh viên quốc tế – một nguồn doanh thu và nhân lực tiến sĩ quan trọng – trong bối cảnh chính phủ thiết lập các hệ thống để kiểm tra lịch sử mạng xã hội của họ. Trong một số trường hợp, chính quyền đã bắt giữ và trục xuất sinh viên chỉ vì họ thể hiện sự ủng hộ đối với người Palestine. Ví dụ điển hình là vụ bắt giữ Rümeysa Öztürk, một nghiên cứu sinh tại ĐH Tufts, với cáo buộc tham gia các hoạt động ủng hộ Hamas, chủ yếu vì cô là đồng tác giả một bài báo chỉ trích cách trường này đối phó với các cuộc biểu tình ủng hộ Palestine.
ĐH Harvard, hàng xóm của ĐH Tufts, còn bị nhắm đến với sự đối xử đặc biệt khắc nghiệt hơn. Trump đã tìm cách dừng việc cấp thị thực cho sinh viên quốc tế đến Harvard và đóng băng khoảng 2,6 tỷ USD từ các khoản tài trợ nghiên cứu của liên bang, nhằm trả đũa việc trường này bị cáo buộc không giải quyết được vấn đề bài Do Thái và không tuân theo sự kiểm soát của chính phủ đối với việc tuyển dụng và chương trình giảng dạy của mình.
Kenneth Kaitin, giáo sư tại Trường Y thuộc ĐH Tufts, chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển thuốc, cho rằng những cuộc tấn công liên tục vào riêng ĐH Harvard sẽ có “tác động thảm khốc” đến hệ sinh thái công nghệ sinh học vốn đang trên đà bùng nổ của khu vực Boston – hiện là lớn nhất thế giới, chịu trách nhiệm tạo ra khoảng 140.000 việc làm và hàng chục tỷ USD xuất khẩu.
Tệ hơn, tất cả những điều này dường như mớ là khởi đầu. Các đề xuất ngân sách Quốc hội của Trump cho năm 2026 đã hệ thống hóa việc cắt giảm những khoản tài trợ lớn cho các cơ quan khoa học: 25% đối với NASA, 40% đối với Viện Y tế Quốc gia (NIH) và 57% đối với Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF). Tạp chí Nature đưa tin rằng với việc cắt giảm này, số lượng người nhận hỗ trợ của NSF co lại từ 330.000 còn khoảng 90.000 mỗi năm, dẫn đến tỷ lệ trúng tài trợ có khả năng giảm từ 26% xuống chỉ còn 7%.
Các khoản tài trợ của liên bang (federal grants) đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu của các trường đại học Mỹ. Phần lớn ngân sách hoạt động của những trường thuộc nhóm có hoạt động nghiên cứu mạnh nhất - hay nhóm R1 - như Stanford và Johns Hopkins - đến từ các khoản tài trợ nghiên cứu. Ví dụ, trong năm 2022-2023, Johns Hopkins nhận 4 tỷ USD từ các nguồn tài trợ của liên bang, chiếm gần 42% doanh thu của trường.
Việc cắt bỏ các khoản tài trợ này sẽ đặc biệt ảnh hưởng tới các dự án nghiên cứu và các chương trình đào tạo sau đại học, vốn hầu như không hoạt động dựa vào học phí. Đó là chưa kể, bên cạnh hỗ trợ nghiên cứu, các khoản tài trợ còn tạo ra hàng nghìn việc làm và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp. Ví dụ, năm 2024, ĐH Michigan đã chi hơn 332 triệu USD cho các hàng hóa và dịch vụ phục vụ các dự án nghiên cứu do liên bang tài trợ. Khoản chi này đem lại thu nhập cho các doanh nghiệp trên khắp nước Mỹ, đặc biệt là các doanh nghiệp gần nơi trường tọa lạc.
Ngoài việc tạo ra cơ hội việc làm, các khoản tài trợ nghiên cứu của liên bang còn giúp đào tạo các thế hệ nhà khoa học và kỹ sư kế tiếp. Tại ĐH Michigan, hơn 61% học viên cao học và nghiên cứu sinh nhận tài trợ từ NSF. Tương tự, các cơ quan liên bang như NIH, Bộ Năng lượng và NASA cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ các dự án nghiên cứu trong lĩnh vực của mình.
Một số trường đại học đang tìm cách bù đắp một phần nguồn quỹ bị mất bằng cách tự tài trợ cho các nghiên cứu hoặc tìm kiếm thêm các nguồn tài trợ tư nhân. Tuy vậy, các chuyên gia cho rằng đây không phải là giải pháp lâu dài, do tư nhân không phải lúc nào cũng sẵn lòng hỗ trợ các dự án có chi phí nghiên cứu cao và mục tiêu thương mại không rõ ràng.
Tư duy mới về việc tái định hình nền khoa học Mỹ
Chính quyền Trump khẳng định các chính sách cắt giảm nêu trên là một phần của nỗ lực “tái sinh nền khoa học của Mỹ” bằng cách nhìn xa hơn các cấu trúc hiện có, mà dường như, trong một số lĩnh vực, đã trở nên lỗi thời và kém hiệu quả.
Như Michael Kratsios, cố vấn KH&CN của Trump, giải thích trong bài phát biểu tại Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia vào ngày 19/5 vừa qua rằng, khoa học Mỹ đã phải đối mặt với tình trạng “lợi suất giảm dần” từ nguồn tài trợ nghiên cứu y sinh, điều này nên “thúc đẩy chúng ta thử nghiệm các hệ thống mới, mô hình mới, cách thức mới để tài trợ, tiến hành và sử dụng khoa học”.
Cùng với những chỉ trích về “thủ tục rườm rà thường đi kèm với nghiên cứu được tài trợ” và “các trào lưu chính trị” mà các nhà khoa học cánh tả hưởng ứng, Kratsios kêu gọi “tập trung đổi mới vào khoa học tiêu chuẩn vàng [có thể tái lặp, minh bạch, được bình duyệt, chấp nhận kết quả tiêu cực và không có xung đột lợi ích…]”, thúc giục các nhà nghiên cứu “thích nghi với thực tế mới và hợp tác sáng tạo với ngành công nghiệp và các tổ chức từ thiện”.
Tuy nhiên, bản dự thảo ngân sách năm 2026 của chính quyền – được trình lên Quốc hội vào đầu tháng trước – lại thể hiện động cơ thiên về chính trị. Văn bản này cho rằng NIH đã làm người dân Mỹ thất vọng khi sử dụng tiền thuế để đầu tư nghiên cứu một cách không hiệu quả, cung cấp các thông tin sai lệch, tài trợ cho các nghiên cứu có tính rủi ro cao, cổ xúy các tư tưởng nguy hiểm (như các nghiên cứu thúc đẩy tư tưởng giới tính cấp tiến). Trong số những cáo buộc chính, đáng kể nhất là việc NIH không phản bác được quan điểm của cánh hữu rằng virus Covid-19 có nguồn gốc từ các nghiên cứu do NIH tài trợ tại Viện Virus học Vũ Hán; cơ quan này bị kết tội che giấu việc đã tài trợ cho “nghiên cứu tăng cường chức năng nguy hiểm” liên quan đến các virus.
NSF thì bị yêu cầu phải cắt bỏ tài trợ cho các nghiên cứu về “khí hậu; năng lượng sạch; các ngành khoa học xã hội, hành vi và kinh tế ‘woke’ [tức là theo chủ nghĩa cấp tiến]; và các chương trình trong các lĩnh vực khoa học ưu tiên thấp”. Cơ quan này bị cho là đã “tiếp sức cho các nghiên cứu có giá trị cộng đồng kém tin cậy, như những tác động mang tính suy đoán từ các kịch bản khí hậu cực đoan và các nghiên cứu xã hội quá hẹp”.
Nhưng có lẽ còn nhiều điều ẩn chứa hơn thế – nếu không phải trong trường hợp của Trump thì ít nhất là trong trường hợp của một số thuộc hạ của ông. Như trường hợp của Kratsios, một số người cho rằng sự nghiệp trước đây của người đàn ông 38 tuổi này với vai trò chánh văn phòng cho tỷ phú công nghệ Peter Thiel, nhà sáng lập PayPal và nhà tài trợ chính trị, là chìa khóa để hiểu tư duy của ông về việc tái định hình khoa học Mỹ.
Thông qua quỹ từ thiện cá nhân của mình, Thiel đã trao hàng trăm suất học bổng trị giá 100.000 USD cho những người trẻ để theo đuổi các công ty khởi nghiệp công nghệ hoặc nghiên cứu khoa học, từ bỏ những cách làm truyền thống trong học thuật. Và trong đại dịch, Thiel cùng các ông trùm công nghệ khác, bao gồm Mark Zuckerberg và Elon Musk, đã rót 50 triệu USD vào quỹ từ thiện khoa học Fast Grants để đối phó với thách thức Covid-19, vì tin rằng bộ máy quan liêu của NIH đã không ứng phó kịp thời.
Cách tiếp cận của Thung lũng Silicon cho rằng các dự án nghiên cứu nhỏ nhưng đặt ra các mục tiêu thông minh, tập trung vào số ít cá nhân xuất chúng, có thể mang đến kết quả vượt trội hơn các phương thức khoa học truyền thống như các hoạt động bình duyệt. Sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo (AI) trong vài năm qua đã củng cố thêm tư duy của giới công nghệ rằng những kết quả mang tính đột phá có thể đạt được với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với các phương pháp nghiên cứu bấy lâu nay. Sự lạc quan về tác động của AI đối với nghiên cứu thậm chí đã khiến nhà sáng lập DeepMind, Demis Hassabis, vào đầu năm nay dự đoán rằng công nghệ này có thể “chữa khỏi mọi bệnh tật” trong vòng một thập kỷ tới.
Sự thiếu hụt khó bù đắp
Tuy nhiên, cách giải thích đó về những cắt giảm của Trump là quá nhân từ, xét đến lịch sử lạm dụng việc kiểm soát tài trợ để đáp trả các tư thù của vị tổng thống tai tiếng này. Josh Hiller, phó giáo sư toán học và khoa học máy tính tại ĐH Adelphi, nhấn mạnh: “Trump đang cố gắng cho cử tri của mình thấy rằng ông ấy thực sự ‘dằn mặt’ giới tinh hoa có quan điểm chính trị tự do.”
Hiller cho rằng các hành động của Trump rõ ràng chỉ là một màn phô diễn chính trị, với cái giá phải trả là lợi ích quốc gia dài hạn, và chỉ ra rằng các công nghệ đột phá hiện tại đều xuất phát từ các dự án nghiên cứu được Chính phủ Mỹ tài trợ trong nhiều thập kỷ qua.
Ông nói: “Các mạng lưới thần kinh lớn tồn tại là nhờ nghiên cứu được thực hiện vào những năm 1970,” trong khi vaccine sử dụng công nghệ mRNA “tồn tại và được bán ra thị trường là nhờ các nghiên cứu được NIH tài trợ từ những năm 1990”.
Kratsios tin rằng ngành công nghiệp có thể tham gia để lấp đầy khoảng trống tài trợ khi NIH và NSF rút lui, ông lưu ý trong bài phát biểu của mình rằng các công ty tư nhân hiện đang chi cho R&D nhiều gấp ba lần so với chính phủ liên bang, thậm chí còn tài trợ cho nghiên cứu cơ bản nhiều hơn cả số tiền mà chính phủ liên bang tài trợ cho các trường đại học. Tuy nhiên, theo Kaitin ở ĐH Tufts, các công ty dược phẩm lớn đang ngày càng phụ thuộc vào khoa học hàn lâm để tìm kiếm những ý tưởng mới, thay vì tự mình tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản.
“Ba mươi năm trước, các công ty dược phẩm thường tự nghiên cứu và phát minh ra các loại thuốc mới – Merck nổi tiếng về điều này, với rất nhiều người đoạt giải Nobel làm việc trong ngành. Nhưng sự ra đời của ngành gen học [nghiên cứu chức năng của toàn bộ hệ gen] đã khiến ngành dược ‘đưa ra quyết định chung rằng không thể hợp lý hóa loại chi phí [nghiên cứu nội bộ quy mô lớn] này’,” Kaitin cho biết. [Nghiên cứu hệ gen tạo ra một môi trường nghiên cứu rộng lớn nhưng mơ hồ, khiến các công ty dược khó biện minh cho chi phí nghiên cứu đắt đỏ mà không có khả năng đảm bảo thành công.]
Trong hệ sinh thái công nghệ sinh học Boston, Harvard, Viện Công nghệ Massachusetts và các tổ chức tinh hoa khác của vùng Greater Boston (vùng đô thị tập trung xung quanh thành phố Boston) giúp cung cấp các phòng thí nghiệm nghiên cứu nuôi dưỡng các ý tưởng đột phá. “Loại bỏ một trong những trụ cột chính của hệ sinh thái sẽ tạo ra nguy cơ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống,” Kaitin bình luận thêm.
Ở cấp độ cá nhân, các khoản tài trợ bị cắt bỏ mang đến nhiều tổn thất tinh thần khác cho nhà nghiên cứu. “Chúng tôi đang đau buồn về rất nhiều điều cùng một lúc – việc mất đi một số đồng nghiệp, nhưng cũng cả việc khép lại những nghiên cứu khoa học tiên tiến với mục tiêu cải thiện cuộc sống của con người – những thứ không nên bị biến thành công cụ chính trị,” Molly Franke, giáo sư tại Khoa Sức khỏe toàn cầu và Y học xã hội của Trường Y Harvard, nói.
Kaitin thì cho rằng việc trông chờ vào hệ sinh thái các công ty sinh học Boston trong việc bù đắp sự thiếu hụt tài chính do những cắt giảm của Trump gây ra là một hy vọng viển vông. “Các công ty dược phẩm không hoạt động với mục đích tài trợ nghiên cứu học thuật chỉ vì mục đích học thuật – làm sao các giám đốc có thể giải thích điều này với các cổ đông, đặc biệt là trong trường hợp của Harvard khi trường này có quỹ tài trợ khổng lồ?”
Hơn nữa, việc Trump ký sắc lệnh hành pháp vào tháng trước, đưa ra các cơ chế giảm giá thuốc cho người dân Mỹ có nghĩa là “ngành công nghiệp dược phẩm cũng đang bị đẩy vào trạng thái sinh tồn – nó sẽ không gánh vác trách nhiệm cho Harvard.”
Nguồn tham khảo:
Bài đăng KH&PT số 1349 (số 25/2025)