Với tình trạng dân số trẻ giảm, tương lai của các trường đại học Nhật Bản là một dấu hỏi lớn.
Ông Nagata Kyosuke, hiệu trưởng Đại học Tsukuba, cho biết, với lượng sinh viên đầu vào ngày càng thu hẹp, không chính phủ nào sẽ dành thêm ngân sách cho giáo dục đại học. “Hỗ trợ cơ bản từ chính phủ không tăng, mà có lẽ còn giảm nhẹ.”
Tháng Sáu năm ngoái, với tư cách là Chủ tịch Hiệp hội các Đại học Quốc gia Nhật Bản (JANU), ông Kyosuke đã có bài phát biểu nói rằng các trường đại học đang đứng trên bờ vực khủng hoảng do tác động của lạm phát và nguồn tài trợ co lại.
Cũng do dân số trẻ giảm, gần đây, chính phủ Nhật Bản đã đề ra các kế hoạch khuyến khích việc sáp nhập giữa các trường và có chính sách hỗ trợ cho một số trường đóng cửa.
Mặc dù các đại học quốc gia lớn như Tsukuba không thuộc đối tượng của các kế hoạch này, nhưng ông Kyosuke hiểu rằng trường của ông không miễn nhiễm với các vấn đề mà toàn ngành đang đối mặt và ông cần giữ thái độ thực tế. Ông nói, các trường đại học phải phát huy những “cách kiếm tiền mới”, bao gồm tăng cường thu hút tài trợ cho nghiên cứu và hợp tác với doanh nghiệp.
Một số trường, như Đại học Tokyo, đã quyết định tăng học phí. Mặc dù Tsukuba chưa làm theo, ông Kyosuke coi việc này sớm muộn cũng không tránh khỏi, “có thể trong vòng ba đến bốn năm tới”.
Nhưng ông Kyosuke rất muốn duy trì nguyên tắc của các đại học quốc gia Nhật Bản, đó là bảo vệ quyền tiếp cận giáo dục đại học cho tất cả sinh viên, bất kể hoàn cảnh tài chính của họ ra sao. Ông nói, quyết định tăng học phí nào cũng cần được bù đắp bằng việc cấp nhiều học bổng hơn.
Một giải pháp khác được coi là chìa khóa cho những thách thức mà các trường đại học Nhật Bản đang đối mặt là quốc tế hóa.
Về mặt này, chiến lược có từ 10 - 15 năm trước của Đại học Tsukuba “đã hoạt động rất tốt”, ông Kyosuke cho biết. Trong số 86 đại học quốc gia của Nhật Bản, Tsukuba chỉ đứng sau Đại học Tokyo về tỷ lệ sinh viên quốc tế - năm 2023, sinh viên nước ngoài chiếm 17,5% tổng số sinh viên của trường.
Tsukuba đang tiếp tục cách tiếp cận hướng ngoại của mình, và gần đây đã mở một cơ sở chi nhánh ở Malaysia. Trường thật sự đang đi đầu trong bối cảnh Nhật Bản nỗ lực mở rộng vai trò của mình trên sân khấu giáo dục đại học toàn cầu. Cơ sở Malaysia, đặt trong khuôn viên Đại học Malaya ở Kuala Lumpur, là chi nhánh đại học đầu tiên ở nước ngoài của Nhật Bản mở các chương trình đào tạo cấp bằng.
Malaysia được cho là tương đối bão hòa các chi nhánh của đại học nước ngoài - bên cạnh cơ sở của Tsukuba còn có cơ sở của các trường như Đại học Nottingham (Anh) và Đại học Monash (Úc).
Tuy nhiên, ông Kyosuke tỏ ra không mấy bận tâm về vấn đề cạnh tranh. “Cạnh tranh và hợp tác luôn song hành,” ông nói, đồng thời cho biết trường của ông đã hợp tác với Đại học Nottingham. “Cạnh tranh để có được sinh viên nhưng sau khi có sinh viên rồi, đó là hợp tác trong giảng dạy hoặc hợp tác trong giáo dục.”
Ông giải thích thêm rằng còn có một động cơ thứ yếu khi Tsukuba thành lập cơ sở ở Malaysia. Không giống như cơ sở chính tại Nhật Bản, vốn tuân thủ một chương trình giảng dạy cứng nhắc theo những quy định của nước này, chi nhánh Malaysia đã đưa vào phương pháp “học tập dựa trên vấn đề” (problem-based learning), cho phép sinh viên học liên ngành. Nó sẽ “hoàn toàn khác” so với chi nhánh của Tsukuba ở Tokyo, ông nói. Với vô số vấn đề mà các trường đại học Nhật Bản đang đối mặt, có vẻ như chấp nhận thay đổi là con đường tốt nhất ở phía trước.
Lấy chất bù lượng
Ông Kyosuke đặc biệt nhấn mạnh, cách tốt nhất để “bù đắp” cho vấn đề quy mô dân số Nhật Bản liên tục giảm là phát triển nhiều tài năng hơn từ mỗi sinh viên và để làm được điều này, cần tăng số lượng sinh viên tiếp tục học lên sau đại học.
Nhật Bản là nền kinh tế lớn duy nhất ghi nhận sự sụt giảm về số lượng người có bằng tiến sĩ kể từ năm 2000. Năm 2022, toàn Nhật Bản tuyển được 14.382 nghiên cứu sinh tiến sĩ mới - giảm 21% so với mức cao nhất là 18.232 người vào năm 2003.
Còn theo Viện Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia Nhật Bản (NISTEP), năm 2020, Nhật Bản có 123 tiến sĩ/1 triệu dân, thấp hơn nhiều so với con số 315 ở Đức và 313 ở Vương quốc Anh trong cùng năm, và con số 285 ở Mỹ vào năm 2019.
Một khảo sát do NISTEP công bố vào năm 2021 cho thấy nhiều nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Nhật Bản cảm thấy nản do tình hình tài chính bất trắc, công việc không ổn định và sự nghiệp thiếu tiến triển.
Trước tình trạng này, đầu năm ngoái, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (MEXT) đã công bố một kế hoạch nhằm tăng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp tiếp tục học lên để lấy bằng tiến sĩ từ 2,7% vào năm 2020 lên 5% vào năm 2030 và 8% vào năm 2040.
Kế hoạch nhằm nâng cao vị thế xã hội cho người có bằng tiến sĩ của MEXT gồm ba trụ cột.
Thứ nhất, tập trung vào việc đa dạng hóa lựa chọn nghề nghiệp, để đảm bảo rằng những người chuẩn bị lấy bằng tiến sĩ có nhiều cơ hội tuyển dụng hơn trong lĩnh vực nghiên cứu bên ngoài môi trường kinh viện, chẳng hạn như trong chính quyền địa phương và trung ương, công ty khởi nghiệp v.v.
Trụ cột này nhằm giải quyết một vấn đề văn hóa bấy lâu nay ở Nhật Bản, đó là trên thực tế, việc sở hữu tấm bằng tiến sĩ lại có thể hạn chế cơ hội được tuyển dụng của một ai đó.
Rào cản lớn nhất là định kiến rằng người có bằng tiến sĩ chỉ giỏi một lĩnh vực cụ thể, Ken Mogi - nhà nghiên cứu về khoa học thần kinh tại Phòng thí nghiệm khoa học máy tính Sony ở Tokyo, học giả thỉnh giảng tại Đại học Tokyo - cho biết. “Với hình ảnh đó, người ta cho rằng người có bằng tiến sĩ sẽ không linh hoạt trong công việc thực tế. Bởi vậy, các công ty Nhật Bản thường ngại tuyển dụng tiến sĩ, và điều này không khuyến khích sinh viên cân nhắc việc học lên cao.”
Đó là chưa kể, thu nhập của người có bằng tiến sĩ cũng chỉ tương đương với các vị trí không đòi hỏi trình độ cao như vậy, theo vị hiệu trưởng Đại học Tsukuba.
MEXT có kế hoạch thúc đẩy các chương trình thực tập trả lương trong khu vực tư nhân, dài ít nhất hai tháng, dành cho nghiên cứu sinh tiến sĩ. Bộ muốn tăng số lượng nghiên cứu sinh ở giai đoạn làm luận án trong các chương trình thực tập này từ 3.000 vào năm ngoái lên 5.000 vào năm 2030.
Bộ cũng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ việc làm của các tiến sĩ từ 70% vào năm 2023 lên 75% vào năm 2030 và 80% vào năm 2040.
Ở trụ cột thứ hai, MEXT muốn nâng cao chất lượng của các chương trình đào tạo sau đại học bằng cách hỗ trợ thêm kinh phí và theo dõi sát sao.
MEXT sẽ tài trợ học bổng hoặc một phần chi phí sinh hoạt và nghiên cứu cho những nghiên cứu sinh tiến sĩ xuất sắc. Thí dụ, Chương trình SPRING hiện đang hỗ trợ các nghiên cứu sinh tiến sĩ xuất sắc 200.000 Yen (1.360 USD) mỗi tháng để trang trải chi phí sinh hoạt, 850.000 Yen mỗi năm cho chi phí nghiên cứu và giảm 50% học phí.
Trụ cột thứ ba là thúc đẩy động lực của sinh viên thông qua các hoạt động cộng đồng. Ví dụ như Ngày hội Tiến sĩ Tương lai, một sự kiện thường niên tại Tokyo, nơi các nghiên cứu sinh tiến sĩ trình bày và tham gia các cuộc thảo luận nhóm liên quan đến nghiên cứu của họ. Mục đích của những sáng kiến như vậy nhằm thể hiện sức hấp dẫn của việc theo đuổi bằng tiến sĩ.
Koichi Sumikura, nhà nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ tại Viện Sau đại học Quốc gia về Nghiên cứu Chính sách, Tokyo, cho biết: Phần lớn các nhà quản lý doanh nghiệp ở Nhật Bản cho rằng chuyên môn và lĩnh vực quan tâm của người có bằng tiến sĩ quá hạn hẹp và không phù hợp với nhu cầu của họ, trong khi trên thực tế, các nghiên cứu sinh tiến sĩ được đào tạo để có tầm nhìn rộng.
Điều quan trọng là các trường đại học cần tăng cường đào tạo về tinh thần khởi nghiệp và mở rộng cơ hội khởi nghiệp để nghiên cứu sinh có thể kết nối nghiên cứu của mình với các ứng dụng trong thực tế - theo Nobuko Kobayashi, người chuyên viết về đổi mới sang tạo trên các phương tiện truyền thông Nhật Bản. Bà cho biết, một yếu tố khích lệ là số công ty khởi nghiệp tách ra từ trường đại học ở Nhật Bản đều tăng lên sau mỗi năm và các công ty này “tuyển dụng nhiều người có bằng tiến sĩ hơn hẳn so với các công ty Nhật Bản khác”.
Nguồn tham khảo:
Bài đăng KH&PT số 1340 (số 16/2025)