Không chỉ là nơi đào tạo và nghiên cứu, các đại học ngày nay còn được kỳ vọng là cái nôi nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân, thúc đẩy thương mại hóa tri thức và dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Nhưng một đại học khởi nghiệp thành công được đo bằng gì?
Trường đại học hiện đại có ba vai trò cốt lõi: giáo dục, nghiên cứu, và đổi mới sáng tạo. Từ trước đến nay, giáo dục – hay truyền dạy tri thức – vẫn là hoạt động chính của các trường, giúp sinh viên xây nền tảng học thuật, tư duy phản biện và năng lực thích nghi với thế giới biến động.
Trong nhiều năm sau đó, một số trường đã phát triển thành đại học nghiên cứu, tức không chỉ tiếp thu tri thức mà còn tạo ra tri thức mới. Từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng, các trường đại học đóng vai trò giải quyết những thách thức lớn như y tế, môi trường, năng lượng và công nghệ.
Gần đây, một số trường đại học đã bắt đầu đảm nhận thêm vai trò “vườn ươm” công nghệ, tức chuyển hóa những kết quả nghiên cứu có tiềm năng thành sản phẩm thực tế thông qua hợp tác với doanh nghiệp và các khách hàng từ khu vực công. Khi vai trò này được củng cố, đại học không chỉ dừng lại ở giảng đường học thuật mà trở thành một trong những động lực phát triển kinh tế - xã hội. Các trường, theo đó, cũng trở thành các đại học khởi nghiệp.
Tuy nhiên, các bộ tiêu chí để đo đếm thành công của một đại học khởi nghiệp sẽ rất khác so với đại học nghiên cứu hay đại học giáo dục. Nếu đại học giáo dục được đánh giá qua chất lượng giảng dạy, đầu ra sinh viên; còn đại học nghiên cứu được đo bằng số lượng công bố, chỉ số trích dẫn hay thứ hạng học thuật; thì đại học khởi nghiệp lại phải được nhìn nhận qua khả năng tạo ra giá trị thực tiễn từ tri thức.
Mặc dù có vẻ rạch ròi nhưng bước chuyển tiếp từ đại học nghiên cứu sang đại học khởi nghiệp vẫn có những sự giao thoa, gây không ít ngộ nhận bên trong về cái gọi là “khả năng tạo ra giá trị thực tiễn từ tri thức”.
Một trong những ngộ nhận phổ biến là cho rằng cứ có nhiều nghiên cứu, nhiều bằng sáng chế thì tự động sẽ có đổi mới sáng tạo. Trên thực tế, nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng thương mại là hai hành trình rất khác nhau. Việc chuyển đổi từ ý tưởng phòng lab sang sản phẩm thị trường cần cả một hệ sinh thái gồm mentor, tài chính, pháp lý, chiến lược sản phẩm, và trên hết là tư duy khởi nghiệp – thứ mà nhiều đại học nghiên cứu chưa từng được rèn luyện.
Ví dụ, nhiều trường đại học tại Việt Nam đầu tư mạnh vào các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, đăng ký hàng chục bằng sáng chế mỗi năm, nhưng lại thiếu cơ chế hỗ trợ spin-off, thiếu đội ngũ hỗ trợ chuyển giao công nghệ, và gần như không có liên kết chặt với doanh nghiệp để thương mại hóa. Kết quả: bằng sáng chế trở thành chi phí chìm cất trong ngăn kéo, chứ không phải tài sản tạo giá trị của đại học.
TS. Đỗ Hoàng Tùng, một nhà nghiên cứu vật lý đang dấn thân vào việc chuyển giao một công nghệ y tế cho các bệnh viện, thẳng thắn nói: “Nhiều sáng chế chỉ nằm trên giấy. Chúng ta chưa có hệ sinh thái đủ mạnh để hỗ trợ thương mại hóa.” Trong trường hợp của mình, TS. Tùng đánh giá rằng bản thân bằng sáng chế không thực sự là bước đột phá, là thứ bảo vệ sản phẩm của họ khỏi bị sao chép mà thực tế lại chính là những luật liên quan đến quản lý thiết bị y tế. Việc tự mình làm ra sản phẩm thật, kiểm chứng được hiệu quả dưới sự hỗ trợ của cơ quan quản lý về y tế và các bệnh viện, rồi từng bước học cách đưa nó ra thị trường – đó mới là hành trình gian nan nhưng thiết thực.
Quan điểm này được phản chiếu rõ qua phân tích của TS. Karel Lember, chuyên gia Bộ Kinh tế và Truyền thông Estonia, tại một buổi tọa đàm với Bộ KH&CN Việt Nam hồi tháng Năm. Theo ông, ở tầm vĩ mô, các nền kinh tế nhỏ không nên chạy đua bằng cách “tích trữ” bằng sáng chế như những nền kinh tế lớn. Thay vào đó, họ cần tập trung vào việc làm sao có được những đổi mới nhanh, liên tục cải tiến sản phẩm và giữ lợi thế cạnh tranh nhờ tốc độ và khả năng thích nghi.
Chia sẻ kinh nghiệm của các nước Liên minh châu Âu (EU) về đo lường mức độ thành công của việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, TS. Karel Lember cho biết: Cứ hai năm một lần, các nước EU sẽ thực hiện một cuộc Khảo sát Đổi mới Sáng tạo toàn khối, yêu cầu doanh nghiệp báo cáo tỷ lệ doanh thu đến từ các sản phẩm mới hoặc đã được cải tiến. Chỉ số này giúp theo dõi xu hướng đổi mới sáng tạo và cách các sản phẩm mới được đưa ra thị trường, bao gồm cả những công nghệ bắt nguồn từ trường đại học. Dù phương pháp này chưa hoàn hảo, nó vẫn cung cấp một cái nhìn hữu ích về sự thay đổi theo thời gian.
Tương tự, từ phía mình, các trường đại học cũng đang cố gắng xoay trục để đo lường mức độ thương mại hóa thành công thông qua các dòng đầu tư trực tiếp đổ vào các công ty khởi nguồn (spin-off), khởi nghiệp (startup), doanh nghiệp, tập đoàn và dự án xã hội liên kết với trường. Các trường sẽ thường xuyên lập bảng khảo sát xem có bao nhiêu nhà sáng lập xuất thân từ đại học của mình? Bao nhiêu công ty startup/spin-off được thành lập? Những công ty này nhận được bao nhiêu vốn đầu tư? Bao nhiêu công ty còn tồn tại trong vòng năm năm tới? Công ty nào đã mở rộng quy mô? Doanh thu mà công ty tạo ra hàng năm? Số nhân sự mà công ty tuyển dụng? v.v Bên cạnh đó là những câu hỏi để chất vấn năng lực hỗ trợ của trường, chẳng hạn Chương trình ươm tạo hoặc hỗ trợ giảng viên, sinh viên của trường có hiệu quả không? Nhà trường hoặc các cựu sinh viên có quỹ tài trợ cho các dự án đổi mới sáng tạo mới? v.v
Tương tự, khi đánh giá giảng viên, các trường của Estonia sẽ không chỉ xét đến các công bố khoa học hay bằng sáng chế mà còn quan tâm đến mức độ nghiên cứu ứng dụng, hoạt động thương mại hóa và hợp tác với doanh nghiệp. Dù không dễ dàng - vì nhiều học giả vẫn không muốn dành quá nhiều thời gian nghiên cứu cho các công ty - nhưng đã có sự dịch chuyển rõ rệt của các trường đại học sang hướng nghiên cứu thực tiễn, gần gũi với nhu cầu thị trường hơn, TS. Karel Lember nhận xét.
Đồng nghiệp của ông, TS. Kulliki Tafel-Viia, Trưởng Bộ phận Quản lý Tri thức của Bộ Kinh tế và Truyền thông, Estonia, tiết lộ rằng Chính phủ Estonia cũng điều chỉnh chính sách tài trợ để buộc các trường đại học chuyển động gần hơn với doanh nghiệp và xã hội. Đây là một động thái ngầm thừa nhận rằng nếu chỉ dựa vào logic nghiên cứu truyền thống, thì rất khó tạo ra giá trị thực tế. Nguồn tài trợ cơ sở từ ngân sách nhà nước sẽ ưu tiên những trường đại học có nhiều thỏa thuận đổi mới sáng tạo với cả khu vực tư và khu vực công hơn. "Trước đây, tiêu chí này không được tính đến, nhưng khoảng 5–6 năm gần đây, nó đã trở thành một phần quan trọng", TS. Kulliki Tafel-Viia nói.
Tóm lại, chuyển từ đại học nghiên cứu sang đại học khởi nghiệp không phải là việc “thêm một vài startup và trung tâm đổi mới sáng tạo” vào mô hình cũ. Đó là một sự tái cấu trúc tư duy, từ việc đánh giá giảng viên, phân bổ ngân sách, đến cách đo lường thành công của nhà trường. Và trước hết, là cần gỡ bỏ những ngộ nhận đang che khuất con đường đổi mới thật sự.
Bài đăng KH&PT số 1348 (số 24/2025)