Một nút thắt trong môi trường KH&CN được kỳ vọng sẽ được tháo gỡ, khi các nhà quản lý hiểu và chấp nhận sự tồn tại của rủi ro trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Phòng thí nghiệm Viện Tế bào gốc, ĐHQG TPHCM.
Phòng thí nghiệm Viện Tế bào gốc, ĐHQG TPHCM.

Tinh thần chấp nhận rủi ro trong khoa học và phát triển công nghệ, với giới khoa học, như một điều tất nhiên theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các nhà khoa học đã phải đi một con đường dài để chạm đến cột mốc này mà không phải lúc nào cũng có được sự đồng hành của các nhà quản lý cũng như xã hội. Đó là lý do mà giáo sư Nguyễn Văn Tuyến, nguyên Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, đã từng nêu trong một cuộc họp các hội đồng khoa học chuyên ngành của Quỹ NAFOSTED về những tình huống thường xảy ra trong nghiên cứu, diễn ra vào tháng 8/2023 “Ví dụ, chúng tôi thực hiện một phản ứng hóa học mà dự toán kinh phí có thể lập vào bốn năm trước nhằm mua các loại hóa chất cụ thể. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, cách tiếp cận đó không hiệu quả, kết quả không ra, cần phải đi mua hóa chất khác”. Trên thực tế thì việc thay đổi danh mục hóa chất và số lượng hóa chất lại không được chấp thuận và nhà khoa học buộc phải mua đúng danh mục đã đăng ký. Đây là nguyên nhân khiến họ có thể rơi vào thế “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. “Nếu anh không mua hóa chất trong danh mục thì không làm nghiên cứu được, nhưng mua ngoài danh mục thì lại sai và không mua ngoài danh mục thì lại không thực hiện được nhiệm vụ của mình”.

Nếu nhà quản lý chưa thực sự chấp nhận rủi ro khi các nhà khoa học thực hiện đề tài thì sẽ xảy ra tình huống mà theo PGS. TS Nguyễn Việt Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường Cơ khí, ĐH Bách khoa HN, khi trả lời Truyền hình Thông tấn tháng 5/2023 “Nếu chúng ta coi rủi ro là thất thoát kinh phí, là thất thoát tài sản công thì thực sự là tai họa đối với nhà khoa học”.

Tuy nhiên, tất cả được kỳ vọng sẽ đảo chiều bởi trong vòng hơn hai tháng, hai nghị quyết lớn với quan điểm cởi mở về cơ chế, chính sách đối với KH&CN, đổi mới sáng tạo đã ra đời, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 193/2025/QH15 của Quốc hội thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Mặc dù để tinh thần đổi mới “chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo” của Nghị quyết 57 thực sự đi vào đời sống KH&CN, sẽ cần đến việc sớm ban hành những thông tư hướng dẫn cụ thể nhưng việc văn bản quan trọng này hướng đến tháo gỡ các nút thắt cũng đem lại nhiều hy vọng cho các nhà khoa học.

Hiểu đúng về rủi ro trong khoa học

“Nếu chúng ta biết rõ thứ chúng ta đang làm thì có nên gọi nó là nghiên cứu không”?, cách đây gần thế kỷ, Albert Einstein đã từng đề cập đến khía cạnh rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Theo quan điểm của cha đẻ Thuyết tương đối, “ai chưa từng mắc lỗi là người chưa từng thử bất kỳ điều mới nào”. Việc đi tìm cái mới, cái chưa từng có, hoặc nếu có chỉ tồn tại về mặt ý tưởng, luôn đi kèm với thách thức, và do đó, ẩn chứa rủi ro.


Hầu hết các đề tài của chúng ta đều ít mạo hiểm và thường có sản phẩm mà không phải xã hội và các nhà khoa học mong muốn mà nó gần như chỉ là sản phẩm trung gian, mang tính chất thử nghiệm, sản phẩm ở giai đoạn phòng thí nghiệm, sản xuất thử. Những sản phẩm thực sự đi vào thị trường, thực sự thành sản phẩm của xã hội thì không nhiều.
TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN


Có một vấn đề là người ta vẫn chưa hiểu đúng về rủi ro trong khoa học. Bởi lẽ, trong cuộc sống hằng ngày, rủi ro thường được sử dụng để chỉ khả năng xấu có thể xảy ra, bao gồm sự bất định về hệ quả như nguy cơ mất mát, nguy hiểm và tổn hại. Vì vậy, các quan điểm phổ biến về rủi ro trong khoa học ở Việt Nam từ trước đến nay thường chú trọng đến sự mất mát tài chính và coi các dự án không đạt được mục tiêu đề ra ban đầu là một thất bại trong khi “trong khoa học, các kết quả tiêu cực một cách hoàn toàn (mất mát) gần như vô cùng hiếm xảy ra. Nhìn chung, các kết quả trong nghiên cứu khoa học đều được phân bổ theo một chiều hướng tích cực, đi từ zero (hiện trạng) đến vị trí cao hơn theo nghĩa hầu hết các nghiên cứu thất bại đều không dẫn đến tổn thất: nó chỉ không tạo ra bước phát triển đáng kể cho lĩnh vực nghiên cứu”, theo nhận định của giáo sư Chiara Franzoni, ĐH Bách khoa Milano, trên tạp chí Research Policy.

Nghiên cứu khoa học là một công việc mạo hiểm. Mọi thí nghiệm, mọi phân tích, mọi sự hợp tác đều đòi hỏi phải bước vào một con đường mà đích đến không chắc chắn và điểm cuối có thể là ngõ cụt. Trong không gian bất định của những điều chưa biết ấy, họ “dò dẫm, tìm cái chưa tồn tại trong thế giới thực, phát triển tri thức mới để giải quyết một vấn đề chưa sẵn có giải pháp, đó là quá trình sáng tạo không chắc chắn 100%, thường có yếu tố bất ngờ”, như lời nhận định của giáo sư Hoàng Tụy trong bài viết trên Tia Sáng vào năm 2006. Việc áp dụng những cách tiếp cận mới, cách tiếp cận táo tạo trong nghiên cứu trong nhiều trường hợp lại có thể dẫn đến những đột phá và có thể là những bước tiến quan trọng trong khoa học bởi các cách tiếp cận thận trọng có thể không làm được điều đó. Việc chấp nhận rủi ro cho phép các nhà khoa học cố gắng thử nghiệm những ý tưởng mới và hình thành những câu hỏi mới mà việc trả lời nó có tiềm năng dẫn đến chuyển đổi mô thức đã có.

Việc đi tìm cái mới, cái chưa có để giải quyết một vấn đề chưa sẵn có giải pháp khiến một dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trở nên khác biệt với các dự án xây dựng hay sản xuất thông thường. “Trong phòng thí nghiệm đã là một quá trình rất là nhiều rủi ro rồi”, giáo sư Vũ Thị Thu Hà, Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm Lọc hóa dầu Quốc gia, cho biết. “Không phải triển khai định hướng nghiên cứu nào, thực hiện thí nghiệm nào cũng thành công bởi phải qua hàng trăm, hàng nghìn thí nghiệm mới có một vài thí nghiệm thành công. Rồi từ một vài thí nghiệm thành công ấy, nhân rộng quy mô để làm sao sản xuất thử nghiệm sản phẩm và trong quá trình thử nghiệm lại tiêu tốn rất nhiều hóa chất, nguyên vật liệu để hoàn thiện dần sản phẩm”. Đó là những gì chị và cộng sự nếm trải khi tạo ra phụ gia FNT6VN sau cả thập niên nghiên cứu nhưng đó là một sản phẩm xứng đáng tự hào: có thể phối trộn với mọi loại nhiên liệu ở mức phần triệu nhưng có thể làm tăng công suất động cơ ít nhất 5%, tiết kiệm nhiên liệu ít nhất 8%, giảm khí thải độc hại HC, CO và độ khói đến 20%.

Khái niệm rủi ro trong khoa học nên được hiểu một cách rộng hơn và đúng thực chất hơn. Trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Đại biểu nhân dân vào tháng 6/2023, giáo sư Nguyễn Quang Liêm (Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) cho rằng, xã hội vẫn hiểu rủi ro trong khoa học là không thành công nhưng về thực chất, rủi ro ở đây hàm ý là không đạt được sản phẩm nghiên cứu như dự kiến. Bởi trong khoa học, việc khoanh vùng để loại trừ những nơi không nên tìm kiếm cũng quan trọng như định vị được những nơi nên tìm kiếm. Sự thất bại của cách tiếp cận này sẽ là động lực thúc đẩy họ áp dụng một cách tiếp cận mới, táo bạo hơn để đạt kết quả mong muốn.

Nếu đi sâu vào tính chất của các dự án nghiên cứu khoa học, có thể thấy có sự khác biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ. Sự rủi ro giữa hai dạng nghiên cứu này cũng có sự khác biệt mà theo giáo sư Vũ Thị Thu Hà “Trong nghiên cứu tạo ra công nghệ rủi ro chỉ chiếm 30% nhưng khi 30% đó nhân lên về quy mô thì lại là con số rất lớn, còn rủi ro trong nghiên cứu cơ bản lên tới 90% nhưng ở quy mô ‘bình cầu’ nên nếu có rủi ro thì con số nhỏ hơn rất nhiều”.


Các nhà khoa học, hầu hết đều cho rằng, để tinh thần chấp nhận rủi ro trong khoa học của hai nghị quyết thực sự trở thành một chính sách thực tiễn với các quy định có thể áp dụng được thì không có cách nào khác, nhà nước và nhà khoa học phải tin nhau. Nhà nước tin tưởng vào sự công tâm và minh bạch trong xét duyệt đề tài của các hội đồng khoa học còn nhà khoa học tin vào những quy định thông thoáng, tạo điều kiện cho nhà khoa học toàn quyền lựa chọn cách tiếp cận trong giải quyết vấn đề.


Mặt khác, việc ứng dụng một công nghệ mới trong đời sống xã hội hoặc chuyển giao cho doanh nghiệp không hẳn không có rủi ro. Giáo sư Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, được báo Hà Nội mới dẫn lời vào tháng 9/2023, nêu những yếu tố rủi ro nằm ngoài phạm vi của khoa học nhưng lại có thể ảnh hưởng đến tương lai ứng dụng của công nghệ. Ông cho rằng, trong nghiên cứu, nhà khoa học có thể thành công khi tạo ra một sản phẩm nhất định nhưng ngặt một nỗi, sản phẩm đó còn quá mới nên rất có thể rơi vào trường hợp, hoặc là điều kiện sản xuất, điều kiện xã hội vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận, hoặc doanh nghiệp chưa đủ trình độ, chưa đủ kinh phí để đưa vào ứng dụng...

Làm gì để chấp nhận rủi ro?

Mặc dù giới khoa học có thể hiểu với nhau rằng rủi ro là điều khó tránh khỏi trong khoa học nhưng từ góc độ quản lý, không phải ai cũng chấp nhận sự thật này và sẵn sàng “châm trước” cho nhà khoa học, nếu đề tài nghiên cứu do họ chủ trì có thể thất bại, tức là không đạt mục tiêu như kỳ vọng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chấp nhận rủi ro khó hơn nhiều, khi nó buộc phải tuân theo những khung khổ pháp luật đã định sẵn.

Sở dĩ có điều này là do, phần lớn các hoạt động tài trợ, đầu tư cho khoa học từ ngân sách nhà nước đều phải tuân theo những quy định tài chính chặt chẽ, nơi coi các dòng tiền này là “vốn nhà nước” mà vốn nhà nước thì không nên để thất thoát. Một trong những cách quản lý mà từ trước đến nay, các nhà quản lý cho rằng hiệu quả nhất là gắn với dòng chi theo từng bước đã định sẵn. Với quan điểm coi một đề tài, dự án nghiên cứu khoa học như một dự án xây dựng hoặc sản xuất thông thường, các nhà quản lý thường để ý rất sát sao các khoản chi đề xuất với các khoản chi thực tế để xem có thực sự trùng khớp với nhau không.

Có một vấn đề ở đây là khi lên khung đề xuất cho một dự án nghiên cứu chừng hai đến ba năm hoặc thậm chí trong khoảng thời gian dài hơn, các nhà khoa học thường chỉ ước tính một cách sơ bộ số lượng vật tư, hóa chất dựa trên cách tiếp cận mà mình cho là có thể để giải quyết vấn đề nghiên cứu muốn theo đuổi. Tuy nhiên, rất có thể là cách tiếp cận đó không hiệu quả, không đem lại kết quả như mong muốn hoặc “Không phải triển khai định hướng nghiên cứu nào, thực hiện thí nghiệm nào cũng thành công bởi phải qua hàng trăm, hàng nghìn thí nghiệm mới có một vài thí nghiệm thành công” như chia sẻ của giáo sư Vũ Thị Thu Hà.

Giữa hiểu đúng về rủi ro trong khoa học và phát triển công nghệ đến việc chấp nhận rủi ro này là một chặng đường dài mà các nhà khoa học đã phải kinh qua. TS. Võ Trí Thành, nguyên Viện Phó trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, cũng trả lời Hà Nội mới vào tháng 9/2023 là do tính rủi ro trong nghiên cứu khoa học nên Nhà nước khi đầu tư cho các sản phẩm KH&CN thì phải chấp nhận rủi ro. “Hãy nhìn các doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm đang làm. Rủi ro có thể lên đến 90% nhưng chỉ cần 10% thành công cũng đủ để đeo đuổi”.

Giờ đây, các nhà khoa học cảm thấy như được chia sẻ phần nào khi Nghị quyết 57 nêu rõ “chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo” và Nghị quyết 193 dành hẳn một điều về “chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trong đó “miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước” và không phải hoàn trả kinh phí khi “đã thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý nhiệm vụ KH&CN, quy trình và nội dung nghiên cứu đã được thuyết minh nhưng không đi đến kết quả như dự kiến”. Nghị quyết 193 đã nhấn mạnh đến yếu tố miễn trách nhiệm dân sự và không phải hoàn trả kinh phí đã sử dụng đối với nhà khoa học, điều khiến nhiều nhà khoa học trước đây cảm thấy e dè mỗi khi viết đề xuất xin tài trợ.

Để tinh thần hai nghị quyết đi vào cuộc sống, đem lại một không gian rộng lớn hơn cho các nhà khoa học phát huy sự sáng tạo thì sẽ cần phải hướng đến những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn. Dẫu vậy, vẫn có những câu hỏi “làm cách nào để các nhà khoa học không ‘vung tay quá trán’ trong quá trình nghiên cứu”? “làm thế nào để các nguồn lực đầu tư của quốc gia đến được ‘đúng người, đúng việc’”? đi kèm với những câu hỏi muôn thuở “làm thế nào để có được những kết quả đột phá?”, “làm thế nào để định lượng được đóng góp của khoa học”?

Ở một góc độ nào đó, đây cũng là những gì quần thảo trong tâm trí các nhà quản lý khoa học quốc tế, trước khi đi đến quyết định trao tài trợ cho những đề xuất nghiên cứu mang tính rủi ro cao. Một trong những trường hợp nổi bật là Katalin Karikó, nhà hóa sinh chuyên về cơ chế trung gian RNA, đặc biệt là mRNA phiên mã in vitro cho liệu pháp thay thế protein được trao giải Nobel Y sinh năm 2023. Bà đã quyết tâm tìm ra cách để chế tạo mRNA tổng hợp có thể áp dụng vào điều trị bệnh nên nộp hơn 20 đề xuất tài trợ. Bất chấp nỗ lực, bà từng nhiều lần bị từ chối “Đêm nào tôi cũng viết đề xuất xin tài trợ, tài trợ, tài trợ. Và câu trả lời luôn là không, không, không”.

Karikó không phải trường hợp duy nhất. James Rothman, một ngày sau khi ông được trao Giải thưởng Nobel Y sinh năm 2013, đã kể “Tôi từng thất bại trong năm năm trước khi có dấu hiệu thành công đầu tiên”.

Vậy đâu là cách thức quốc tế chấp nhận rủi ro để vừa khuyến khích các nhà khoa học sáng tạo vừa khiến các nhà quản lý cảm thấy an tâm về việc đồng tiền tài trợ được sử dụng một cách hợp lý? Nhìn chung, các cơ quan tài trợ đều áp dụng một quy trình chặt chẽ trong xét duyệt các hồ sơ đề xuất thông qua các hội đồng khoa học chuyên ngành. Hiện tại ở Việt Nam, Quỹ NAFOSTED, sau là Quỹ VINIF, đã học tập cách làm này và áp dụng khá thành công thông qua hai bước quan trọng: thẩm định hồ sơ và bình duyệt đề xuất với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài hội đồng, đặc biệt có cả chuyên gia quốc tế. Các nhà khoa học trong hội đồng chuyên ngành sẽ là những người đóng vai trò quyết định và lựa chọn các đề xuất, các ý tưởng khoa học. “Tại sao không đặt nặng vấn đề đánh giá đúng đắn ở ngay khâu xét duyệt và phân bổ kinh phí cho các đề tài? Cải cách việc xét duyệt cho đàng hoàng hơn, công bằng hơn, hợp với thông lệ quốc tế hơn?”, câu hỏi đau đáu của giáo sư Hoàng Tụy hơn 20 năm trước vẫn còn nguyên giá trị.

Trong cuộc trao đổi giữa báo Khoa học và phát triển với các nhà khoa học, hầu hết đều cho rằng, để tinh thần chấp nhận rủi ro trong khoa học của hai nghị quyết thực sự trở thành một chính sách thực tiễn với các quy định có thể áp dụng được thì không có cách nào khác, nhà nước và nhà khoa học phải tin nhau. Nhà nước tin tưởng vào sự công tâm và minh bạch trong xét duyệt đề tài của các hội đồng khoa học còn nhà khoa học tin vào những quy định thông thoáng, tạo điều kiện cho nhà khoa học toàn quyền lựa chọn cách tiếp cận trong giải quyết vấn đề. “Theo tôi, chúng ta nên tạo cơ chế càng ngày càng gia tăng niềm tin vào các nhà khoa học, chúng ta cần dành cho nhà khoa học cái quyền cao hơn. Tất nhiên chúng ta không thể tin một cách không có cơ sở được, cần phải có sự xét duyệt chặt chẽ đầu ra, đầu vào”, giáo sư Phan Tuấn Nghĩa, ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN), cho biết tại cuộc họp NAFOSTED năm 2023.

Niềm tin vào nghiên cứu và các hội đồng khoa học cần được xây dựng và củng cố trong một môi trường khoa học minh bạch, nghiêm cẩn và khách quan theo thông lệ quốc tế, giáo sư Phạm Đức Chính, nhà khoa học giành giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2019 nhận định. Việc các nhà quản lý trao niềm tin cho các hội đồng khoa học hay nhà khoa học cần đi kèm với việc tôn trọng các quyết định của họ. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng “gốc rễ của vấn đề là cần phải gìn giữ thật nghiêm cẩn môi trường khoa học và sự nghiêm cẩn của các hội đồng. Việc đánh giá nên dựa vào bản chất của khoa học có được khách quan và công bằng hay không là phụ thuộc vào môi trường khoa học có tốt hay không”. Do đó, theo quan điểm của ông, việc giữ gìn sự liêm chính trong cộng đồng, bắt đầu từ việc không chạy theo những thành tích ảo, đếm bài cho đạt chỉ tiêu và nỗ lực có được những kết quả nghiên cứu thực sự tốt.

Việc chấp nhận rủi ro không chỉ tốt cho nghiên cứu cơ bản, nơi có tiềm năng tạo ra những bài báo “nhảy vọt” được nhiều trích dẫn hơn trung bình 52% so với các bài báo “lặp lại”, các bài báo “có tính mới” được trích dẫn nhiều hơn 30% so với các bài báo “lặp lại”, mà còn có thể dẫn đến những sản phẩm có tiềm năng hình thành công nghệ. Đây là điều Việt Nam vẫn còn thiếu.

Việc tháo bỏ nút thắt này sẽ là một động lực quan trọng để củng cố và đưa khoa học Việt Nam đến một bước phát triển mới trong tương lai?

Bài đăng KH&PT số 1335 (số 11/2025)