Hệ thống bản đồ số giúp Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc rộng 400 ha ở TPHCM quản lý dữ liệu theo thời gian thực, đồng thời mang đến cho du khách trải nghiệm khám phá di sản trực quan và sinh động.
Với diện tích hơn 400 ha, Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc là một trong những không gian văn hóa quy mô nhất của TPHCM. Được xây dựng từ những năm 1990, công viên được định hướng như một “bảo tàng lịch sử ngoài trời”, tái hiện tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc từ thời Hùng Vương đến hiện đại thông qua hệ thống quảng trường, đền đài, hồ nước và các cụm kiến trúc biểu tượng. Không chỉ là điểm đến tham quan, nơi đây còn là trung tâm tổ chức các hoạt động lễ hội và giáo dục truyền thống quan trọng của thành phố như Lễ giỗ tổ Hùng Vương, các chương trình ngoại khóa cho học sinh – sinh viên và nhiều sự kiện cộng đồng quy mô lớn. Công viên hiện mở cửa tự do cho người dân và du khách, với lượng khách trung bình hơn 200.000 lượt/năm.
Tuy nhiên, càng đồ sộ thì việc quản lý càng phức tạp. Với hàng trăm héc-ta đất, hàng chục công trình kiến trúc và nhiều yếu tố văn hóa phi vật thể cùng tồn tại, việc lưu trữ và khai thác dữ liệu trước đây chủ yếu dựa trên hồ sơ giấy hoặc bản vẽ chuyên môn khó tiếp cận. Muốn kiểm tra tình trạng một công trình phải tra lại hồ sơ cũ, muốn xác định ranh giới một lô đất phải đi đo đạc trực tiếp tại hiện trường. Những bước thủ công ấy không chỉ tốn thời gian mà còn làm hạn chế khả năng khai thác giá trị di sản ở tầm chiến lược dài hạn.
Trước những bất cập đó, Sở KH&CN TPHCM đã giao Trung tâm Ứng dụng Hệ thống Thông tin Địa lý TPHCM thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ GIS trong công tác quản lý đất đai, quản lý các công trình thuộc Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc”, nhằm tích hợp tất cả các dạng dữ liệu - vị trí, hình dáng từng công trình và lịch sử hoạt động văn hóa - vào một nền tảng thống nhất.
Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc với diện tích hơn 400ha được số hóa. Ảnh: NNC
Theo đó, công viên được tái hiện bằng 20 lớp thông tin khác nhau từ hạ tầng giao thông, mặt nước, cây xanh đến từng công trình kiến trúc lớn nhỏ. Không chỉ các yếu tố vật thể, mà cả những thành tố phi vật thể như lễ hội, nghi thức, tuyến rước cũng được định vị trên bản đồ. Mỗi điểm dữ liệu đều có hồ sơ điện tử đi kèm, giúp người quản lý chỉ cần nhấp chuột là biết ngay thông tin về diện tích, thời điểm xây dựng, mức độ khai thác, tình trạng sử dụng hoặc phương án quy hoạch liên quan.
Bên cạnh đó, hệ thống còn cho phép mô phỏng 3D và 360 độ các công trình tiêu biểu, cho phép khách tham quan “dạo bước” qua không gian mô phỏng để tìm hiểu lịch sử trước khi đến tham quan thực tế. Những trải nghiệm trực quan như vậy khiến di sản trở nên sống động hơn, gần gũi hơn với thế hệ trẻ – nhóm công chúng vốn ít bị thu hút bởi biển bảng hay mô hình trưng bày tĩnh.
Theo nhóm thực hiện, nếu trước đây bảo tồn thường đồng nghĩa với việc giữ nguyên hiện trạng, thì nay di sản được coi như một hệ thống thông tin có thể phân tích, truy vấn, cập nhật liên tục. Khi dữ liệu được số hóa đầy đủ, việc tích hợp với các lĩnh vực khác như giao thông, du lịch, quy hoạch đô thị trở nên dễ dàng hơn. Điều này đặc biệt quan trọng trong chiến lược xây dựng đô thị thông minh của TPHCM. Từ nền tảng đã xây dựng, mô hình GIS hoàn toàn có thể mở rộng sang các công viên, bảo tàng, khu di tích khác của thành phố như Địa đạo Củ Chi, Bảo tàng TPHCM hay các cụm đền đình truyền thống khác.
Đề tài đã được Sở KH&CN TPHCM nghiệm thu, kết quả đạt.
Tin đăng KH&PT số 1365 (số 41/2025)