Quy trình bao trái và phun phân Canxi chlorua (CaCl2) trên trái vú sữa giúp giúp nhà vườn hạn chế tình trạng ruồi đục trái và hiện tượng nứt trái, cũng như giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật.
Vú sữa là cây ăn quả được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau,… Tại tỉnh Sóc Trăng, diện tích trồng vú sữa ước tính hơn 1.600 ha, tập trung chủ yếu tại một số xã như Xuân Hòa, Trinh Phú, Ba Trinh, Phong Nẫm thuộc huyện Kế Sách, với nhiều giống khác nhau như vú sữa tím, lò rèn, hoàng kim, bơ hồng.
Hiện nay, ruồi đục trái là một đối tượng gây hại nghiêm trọng tại các vùng trồng vú sữa, làm giảm năng suất và chất lượng của quả và gây tốn kém chi phí để phòng trừ. Bên cạnh đó, khi nông dân áp dụng biện pháp phun thuốc hóa học phòng trừ ruồi đục trái thì phải phun định kỳ, ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khỏe người trồng, người tiêu dùng và môi trường. Đối với thị trường nhập khẩu thế giới, ngoài các tiêu chuẩn về khối lượng, chất lượng, mẫu mã, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật,… trái cây còn phải bảo đảm tuyệt đối không có đối tượng kiểm dịch thực vật, đặc biệt là ruồi đục trái.
Để góp phần quản lý ruồi đục trái hiệu quả, Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KH&CN tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của các loại vật liệu túi bao trái và liều lượng phân Canxi chlorua (CaCl2) đến chất lượng trái vú sữa tím ở huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng”.
Nhóm tác giả phát hiện, việc sử dụng các loại túi bao trái như nilon trong, túi vải xốp hoặc túi ½ nilon trong + ½ vải xốp hạn chế được khoảng 96-98% tình trạng ruồi đục trên trái vú sữa tím. Vật liệu vải xốp thích hợp cho bao trái vú sữa tím vì tỉ lệ ruồi đục trái thấp (2,3%), ít nứt trái, trái có trọng lượng cao (223 g), độ ngọt cao (brix 15,0) tương đương với điều kiện không bao trái.
Tuy nhiên, bao bằng túi vải xốp có hai bất lợi là giá cả túi cao (cao hơn túi nilon trong) và không bao được ở các trái cao vượt tầm với của tay người (do phải dùng tay cột miệng túi khi bao). Vật liệu nilon trong có tỉ lệ ruồi đục trái thấp (khoảng 3,3%), trọng lượng trái cao tương đương bao vải xốp (235 g), độ ngọt (brix 14,2), thấp hơn không bao trái nhưng tương đương với khi bao bằng vải xốp.
Theo nhóm tác giả, túi nilon trong có giá thành thấp nhất trong các loại túi, có thể bao được cho các trái trên cao bằng các dụng cụ bao trái cây. Do đó, sử dụng vật liệu nilon trong để bao trái vừa thuận tiện, đảm bảo năng suất, chất lượng trái phù hợp với thị trường trong và ngoài nước. Nhóm cho biết, bao trái ở thời điểm từ 90 ngày đến 120 ngày sau đậu trái cho tỉ lệ ruồi đục trái thấp (không phát hiện ruồi đục trái), độ ngọt cao (trên 14,0). Bao ở thời điểm 150 ngày dễ bị ruồi đục trái tấn công (khoảng 9,1%).
Khi bao trái bằng túi nilon trong, trái đang ở giai đoạn phát triển, dễ bị nứt khi gặp mưa hoặc khi mực nước cấp trong vườn cao, nhất là vào giai đoạn chuẩn bị chín và thu hoạch. Vì vậy, nhóm đã thực hiện thí nghiệm về việc sử dụng canxi chlorua (CaCl2) phun qua trái để hạn chế tình trạng nứt trái, chạy chỉ trên trái vú sữa tím. Ở Việt Nam, CaCl2 được khuyến cáo áp dụng để khắc phục tình trạng nứt trái trên một số loại trái cây như cam, quýt, vải, lựu,…
Theo đó, CaCl2 với nồng độ là 0,5%, 2,0%, 4,0% được phun ướt hết mặt trên và dưới của lá và trái vào buổi sáng sớm (phun 1,5 lít/cây). Sau khi phun CaCl2 đủ hai lần, trái được bao bằng túi nilon trong chuyên dụng.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, phun CaCl2 nồng độ 2,0% vào lúc 90 và 120 ngày sau đậu trái cho tỉ lệ nứt trái thấp (17,2%), so với đối chứng không phun giảm được hai lần (37,1%); không bị ruồi đục, không bị chạy chỉ; trọng lượng (215g) và độ ngọt cao (brix 13,7).
Đề tài đã được Sở KH&CN Sóc Trăng nghiệm thu cuối năm 2022 và giao quyền sử dụng kết quả của đề tài cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng triển khai, nhân rộng. Đề tài đã được triển khai tại Hợp tác xã nông nghiệp Quyết Thắng, Hợp tác xã nông nghiệp Lộc – Mãi, huyện Kế Sách và một số nhà vườn khác.
Đến nay có trên 60% diện tích trồng vú sữa của huyện Kế Sách đã sử dụng quy trình bao trái, phun CaCl2, đem lại lợi nhuận tăng từ 45 - 110 triệu đồng/ha so với trước đây do giảm chi phí sử dụng thuốc và giảm mức độ thiệt hại do ruồi đục trái gây ra. Ngoài ra, việc áp dụng quy trình bao trái vú sữa làm giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật, giúp cho lực lượng thiên địch phát triển, tạo sự cân bằng trong hệ sinh thái, góp phần phát triển sản xuất theo hướng an toàn, bền vững.
Đăng KH&PT số 1331 (số 7/2025)