Mô hình này giúp chủ động nguồn giống, phù hợp với quy mô hộ gia đình, tận dụng lao động nhàn rỗi và có thể áp dụng ở cả vùng khó khăn.

Nghệ An sở hữu những điều kiện tự nhiên thuận lợi như khí hậu, nguồn nước và kinh nghiệm để phát triển nghề nuôi lươn đồng. Tuy vậy, trên thực tế, hoạt động nuôi lươn tại địa phương vẫn còn manh mún, kỹ thuật chưa đồng đều và phụ thuộc nhiều vào nguồn giống nhập từ nơi khác.

Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Sở KH&CN Nghệ An đã giao Trung tâm Giống thủy sản tỉnh triển khai dự án xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm lươn đồng quy mô hàng hóa.

Trong nghiên cứu này, lươn bố mẹ được tuyển chọn từ đàn nuôi thương phẩm có nguồn gốc tự nhiên, khỏe mạnh, đồng đều, không bệnh và không dị tật. Sau ba tháng nuôi vỗ trong bể xi-măng, lươn được đưa vào bể sinh sản mô phỏng môi trường tự nhiên, bằng cách bố trí các vật liệu như ống nhựa, chậu nhựa, bèo tây, rơm rạ. Không sử dụng hormone, mô hình áp dụng phương pháp sinh sản bán nhân tạo. Lươn chui vào các ống nhựa, chậu nhựa tự làm tổ bằng cách kéo vật liệu mềm vào để nhả bọt và đẻ trứng.

Theo dõi thực tế cho thấy mùa sinh sản bắt đầu từ tháng Tư và kéo dài đến tháng 11, trong đó giai đoạn từ tháng Tư đến tháng Chín là thời kỳ sinh sản tập trung.

Lươn giống được sinh sản bán nhân tạo. Ảnh: NNC

Mô hình đã sản xuất được hơn 444.000 con giống cỡ 8–10 cm với tỷ lệ sống đạt 50% ở giai đoạn lươn bột (mới nở, còn noãn hoàng), 68% ở giai đoạn lươn hương (đã tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn thức ăn ngoài), và 67% ở giai đoạn từ lươn hương lên lươn giống.

Nhờ áp dụng sinh sản bán tự nhiên không dùng hormone, giá thành sản xuất mỗi con giống giảm 2.000–2.500 đồng so với thị trường, đảm bảo an toàn sinh học và phù hợp định hướng phát triển bền vững. Lợi nhuận thu về gần 700 đồng/con giống.

Bên cạnh đó, Dự án còn triển khai ba mô hình nuôi lươn thương phẩm tại huyện Diễn Châu và Trại giống Yên Lý (thuộc Trung tâm Giống Thủy sản Nghệ An), cũng ở huyện này, với con giống do chính Dự án sản xuất. Lươn được nuôi trong bể xi-măng có mái che, không sử dụng bùn đáy nhằm dễ kiểm soát môi trường, hạn chế dịch bệnh và giảm công lao động. Thời gian nuôi kéo dài 11–12 tháng, kết hợp cho ăn thức ăn công nghiệp và thức ăn tươi sống. Khi thu hoạch, lươn đạt kích cỡ 6–7 con/kg, năng suất 16–20 kg/m², tỷ lệ sống đạt 59–63,6%, cho lợi nhuận khoảng 513.000 đồng/m².

Theo nhóm thực hiện, mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm lươn đồng tại Nghệ An giúp chủ động nguồn giống, phù hợp với quy mô hộ gia đình, tận dụng lao động nhàn rỗi và có thể áp dụng ở cả vùng khó khăn.

Tin đăng KH&PT số 1350 (số 26/2025)