Nghiên cứu do Viện Bảo vệ thực vật thực hiện đã xác định rõ nguyên nhân gây biến dạng và đề xuất giải pháp canh tác hiệu quả, giúp nâng cao năng suất, chất lượng quả măng cụt.

Măng cụt là một trong những cây trồng ăn trái của tỉnh Lâm Đồng, được đánh giá cao nhờ chất lượng vượt trội: vỏ mỏng, cơm trắng và dày, vị ngọt thanh và ít hỏng. Tuy nhiên, những năm gần đây, nhiều nhà vườn ở Bảo Lâm, Bảo Lộc và Đạ Huoai đối mặt với tình trạng măng cụt bị biến dạng khá phổ biến như xì mủ quả, cong vẹo, nứt vỏ, sượng múi..., ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng thương phẩm.

Trước thực trạng này, Sở KH&CN tỉnh Lâm Đồng đã giao Viện Bảo vệ thực vật thực hiện đề tài nghiên cứu xác định nguyên nhân hiện tượng biến dạng quả măng cụt trên địa bàn tỉnh và giải pháp khắc phục.

Qua khảo sát thực tế trên diện rộng, nhóm nghiên cứu nhận thấy hiện tượng xì mủ và biến dạng quả xảy ra ở toàn bộ các vườn trồng. Tỷ lệ quả bị ảnh hưởng vào đầu vụ khoảng 30%, tăng lên 70–80% vào cuối vụ nếu không có biện pháp xử lý.

Đặc biệt, những vườn trồng trên đất bằng, với độ dốc nhỏ dưới 15 độ, có tỷ lệ quả bị biến dạng cao hơn các vườn trồng trên đất dốc lớn. Điều này cho thấy yếu tố địa hình cũng liên quan đến mức độ phát sinh bệnh.

Ngoài ra, các tác giả xác định ba nhóm nguyên nhân chính gây ra hiện tượng quả măng cụt biến dạng, đó là yếu tố sinh lý cây (sốc nhiệt, thiếu nước, mất cân bằng sinh trưởng); đất chua, thiếu dinh dưỡng; và sâu bệnh gây hại. Kết quả điều tra ghi nhận có tới hơn 10 loài sâu hại và bốn loài bệnh hại liên quan đến tình trạng biến dạng quả, trong đó nổi bật là rầy xanh, bọ trĩ, bệnh thán thư và nấm Phytophthora sp.

Hiện tượng xì mù trên quả măng cụt. Ảnh: NNC

Dựa trên các nguyên nhân đã xác định, nhóm nghiên cứu xây dựng bộ giải pháp tổng hợp gồm: cắt tỉa cành tạo tán, tưới nước giữ ẩm, bón phân cân đối, cải tạo pH đất bằng vôi, và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng kỹ thuật.

Ba mô hình thử nghiệm được triển khai tại Bảo Lộc và Đạ Huoai để đánh giá hiệu quả và cho thấy, khi áp dụng đồng bộ các biện pháp, tỷ lệ quả biến dạng giảm đáng kể.

Cụ thể, khi áp dụng các biện pháp cơ học (cắt tỉa cành, tạo tán và quản lý độ ẩm đất) tại Đạ Huoai và Bảo Lộc, tỷ lệ biến dạng quả giảm, lần lượt còn 25% và 22% so với 36% trong mô hình đối chứng không áp dụng các biện pháp. Đặc biệt, kết hợp việc điều chỉnh độ pH đất về mức 5,7–5,8 bằng cách bón vôi hợp lý giúp giảm tỷ lệ quả bị biến dạng xuống dưới 20%.

Đồng thời, nhóm nghiên cứu thử nghiệm hiệu quả của ba loại thuốc phòng trừ rầy xanh và bệnh xì mủ. Sau bảy ngày xử lý, thuốc Sherzol 205 EC đạt hiệu lực cao nhất đối với rầy xanh (82%), còn thuốc Rhidomil Gold 68 WG đạt hiệu quả cao nhất với bệnh xì mủ (gần 80%). Như vậy, biện pháp hóa học nếu được sử dụng đúng thời điểm và liều lượng sẽ giúp hạn chế sâu bệnh rõ rệt mà không gây hại cho cây.

Bên cạnh việc cải thiện chất lượng quả, các mô hình trình diễn còn đạt hiệu quả rõ rệt về kinh tế với tỷ lệ quả loại đẹp đạt 93-95%, cao từ gấp rưỡi đến gấp đôi ở mô hình đối chứng; trọng lượng trung bình mỗi quả đạt 84-90g (so với 75g ở mô hình đối chứng), đưa lợi nhuận đạt gần 240-300 triệu đồng/ha, cao hơn mô hình đối chứng tới 120-135 triệu đồng.

Nhóm thực hiện cho biết, bộ giải pháp này không chỉ mang lại hiệu quả canh tác rõ rệt mà còn dễ áp dụng, phù hợp với điều kiện sản xuất của nông dân. Sau khi tổ chức các buổi tập huấn và hội thảo đầu bờ, nhiều hộ trồng măng cụt tại Lâm Đồng đã tích cực tiếp nhận và áp dụng các kỹ thuật mới.

Đề tài cũng đã xây dựng được hai quy trình kỹ thuật riêng biệt, phù hợp cho các vùng sinh thái khác nhau (Bảo Lâm - Bảo Lộc, và Đạ Huoai - Đạ Tẻh - Cát Tiên), giúp nâng cao chất lượng trái măng cụt, tạo tiền đề cho việc phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn xuất khẩu.

Bài đăng KH&PT số 1349 (số 25/2025)