Sâm cau (Curculigo orchioides Gaertn.) là một trong những loài thảo dược quý hiếm, được xếp vào loài Nguy cấp có nguy cơ tuyệt chủng ngoài thiên nhiên. Dược liệu sâm cau được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền từ lâu đời ở Việt Nam và nhiều nước châu Á khác. Thành phần chính trong dược liệu sâm cau là các nhóm chất như flavoid, glycosid, steroidal saponin. Tác dụng của sâm cau là làm ổn thận, trừ hàn, chữa các bệnh trĩ, đau bụng, chữa ho vàng da, điều trị suy giảm thể lực, bảo vệ gan, chống oxy hóa, tiểu đường, kháng viêm, chống ung thư,…
Trong tự nhiên, cây sâm cau được nhân giống hữu tính bằng hạt hoặc vô tính bằng mầm chồi và lá. Khả năng nhân giống sâm cau trong tự nhiên nhìn chung thấp do tỷ lệ hạt nảy mầm rất kém và thời gian nảy mầm kéo dài do hạt phải trải qua giai đoạn ngủ nghỉ từ 6-12 tháng. Sâm cau chủ yếu được thu hoạch từ nguồn tự nhiên, trong khi khả năng tái sinh của cây thấp, cho nên các quần thể tự nhiên ngày càng suy giảm.
Kon Tum là một trong những tỉnh có diện tích rừng trồng, rừng phục hồi khá lớn, có thể trồng các loài cây dược liệu dưới tán rừng, bao gồm sâm cau. Do đó Sở KH&CN Kon Tum đã triển khai đề tài “Trồng thực nghiệm Sâm cau dưới tán rừng trên một số tiểu vùng sinh thái của tỉnh Kon Tum”, Viện Dược liệu là đơn vị thực hiện.
Theo đó, sâm cau được trồng thực nghiệm dưới tán rừng tại Vườn Quốc gia Chư Mom Ray, huyện Sa Thầy và tại xã Ia Dom, huyện Ia H’Drai.
Sau hai năm, sâm cau trồng ở huyện Sa Thầy có chiều dài thân rễ 8 - 10 cm, khối lượng thân rễ tươi 12,24 - 13,63 g. Sâm trồng ở Ia Hdrai có chiều dài thân rễ 7,9 - 9,2 cm, khối lượng thân rễ tươi từ 10,2 -13,5 g. Cả hai mô hình có tỷ lệ sống trên 80%, cây sinh trưởng và phát triển tương đối đồng đều. Năng suất đạt khoảng 0,87-2,11 tấn/ha tại Sa Thầy và 0,86-2,01 tấn/ha tại Ia H’Drai.
Kết quả phân tích chất lượng của mô hình đều đạt so với Dược điển Việt Nam V. Trong đó, hàm lượng Orcinol glycosid (hơn 0,3%) và curculigosid (hơn 0,1%) đạt tiêu chuẩn dược liệu sâm cau. Đây là những hoạt chất có các tác dụng sinh học như chống loãng xương, chống trầm cảm, chống ôxy hoá, tăng cường miễn dịch và cải thiện chứng loãng xương.
Theo tính toán của nhóm thực hiện đề tài, mô hình trồng sâm cau đã mang lại lợi nhuận từ 12 đến hơn 100 triệu đồng/ha trong hai năm, phụ thuộc vào mật độ trồng. Trong khi đó, nếu trồng dược liệu sa nhân tím tại Sa Thầy cho lợi nhuận từ 15 - 20 triệu đồng/ha sau hai năm trồng.
Đề tài kết luận, cây sâm cau thích ứng với điệu kiện sinh thái trên địa bàn triển khai, tận dụng khoảng đất trống trong rừng trồng, rừng tái sinh đang phục hồi, giúp cải thiện sinh kế, tăng thu nhập cho người dân, trong khi vẫn đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển của các cây rừng khác.
Bên cạnh đó, đề tài còn hoàn thiện tài liệu kỹ thuật hướng dẫn trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế và bảo quản sâm cau dưới tán rừng, qua đó có thể nhân rộng mô hình này.