Mô hình này giúp phát triển đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao, góp phần đa dạng hóa cơ cấu vật nuôi, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân

Với địa hình đồi dốc xen lẫn hệ thống sông, hồ, huyện Ia H’Drai tỉnh Kon Tumphù hợp để khai thác tiềm năng mặt nước như du lịch, nuôi thủy sản, trồng cây ăn trái,… Đặc biệt, trên địa bàn huyện có lòng hồ Thủy điện Sê San, trải dài khoảng 60km, với diện tích mặt nước gần 5.000ha. Đây là khu vực có mặt nước ổn định, nguồn thủy sản tự nhiên dồi dào với nhiều loại cá đặc sản, tạo điều kiện để người dân phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi cá trong lồng bè.

Trong đó, cá hô (Catlocarpio siamensis) là loài cá nước ngọt lớn nhất thuộc họ cá chép. Cá trưởng thành có thể đạt chiều dài lên đến 2–3 m, trọng lượng vượt 100 kg trong điều kiện tự nhiên. Cá thích nghi tốt với khu vực hồ, đầm hoặc các lòng hồ thủy điện, đem lại giá trị kinh tế và sinh thái cao - giá bán cá hô nuôi hiện nay khoảng 200 ngàn/kg, tùy trọng lượng, đối với cá tự nhiên giá từ 700 ngàn đến hơn 1 triệu đồng/kg.

Nhằm phát triển đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao, góp phần đa dạng hóa cơ cấu vật nuôi, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân, Sở KH&CN Kon Tum triển khai đề tài “Mô hình nuôi thử nghiệm cá hô (Catlocarpio siamensis) trong lồng bè trên hồ Sê San 4, huyện Ia H’Drai tỉnh Kon Tum”, Trường Đại học Cần Thơ là đơn vị thực hiện.

Nuôi cá hô trong lồng trên hồ Se San 4. Ảnh: NNC

Mô hình do một số hộ có kinh nghiệm nuôi cá lồng bè trên hồ Sê San 4 thực hiện, với số lượng cá giống được thả trên 2 ngàn con, trọng lượng từ 28-35g/con. Mỗi đợt đều có hai giai đoạn là nuôi dưỡng cá giống nhỏ trong lồng gỗ lên cá giống lớn trong sáu tháng, rồi chuyển sang lồng nhựa HDPE nuôi cá thương phẩm (10 – 14 tháng). Hồ chứa nuôi cá phải là nơi có dòng chảy 0,2 – 0,5m/s, lồng nuôi sâu khoảng 5m, pH nước từ 7 – 8.5, nhiệt độ 27 – 32oC,

Sau hai năm triển khai, mô hình thử nghiệm nuôi cá hô trong lồng bè đạt tỷ lệ sống 70,5 – 85,3% (vượt kế hoạch đề ra là trên 65%). Môi trường sống tại hồ thủy điện Sê San 4 có chất lượng nước tốt, cá hô sớm thích nghi và tăng trưởng nhanh. Từ trọng lượng 28-35g/con khi mới thả, qua 20 tháng nuôi, trọng lượng dao động từ 2,2-3,2 kg/con. Nguồn thức ăn của cá hô là cám công nghiệp, có thể dặm thêm ít cá tạp. Cá hô ăn ít, chỉ bằng 60% so với cá lăng hay cá lóc, ít bệnh tật. Các hộ tham gia mô hình đều có lợi nhuận, với tỷ suất lợi nhuận đạt cao nhất đạt 108%.

Cá hô dễ nuôi và có giá trị kinh tế cao. Ảnh: NNC

Nhóm thực hiện đề tài khuyến cáo, mùa vụ nuôi, thả giống vào tháng Tư hoặc tháng Sáu là tốt nhất, do thời điểm này môi trường nước tốt, cá hô nhanh thích nghi. Tránh thả cá đầu mùa mưa (tháng Năm) hay vào những tháng có nhiều mưa, bão (tháng Tám đến tháng 11) hoặc mùa đông nhiệt độ thấp (tháng 12 - tháng Hai) vì cá sẽ chậm thích nghi, tỷ lệ hao hụt cao.

Đặc biệt, phải mua cá giống có nguồn gốc rõ ràng, từ các cơ sở có uy tín, có kiểm soát chất lượng cá bố mẹ, cá giống và quá trình sản xuất giống. Chọn cá hô giống có kích cỡ lớn, khối lượng từ 40 - 60 g/con trở lên.

Thành công bước đầu của mô hình này mở ra hướng đi mới trong nuôi trồng thủy sản tại huyện Ia H’Drai, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân địa phương.

Mô hình đã được Sở KH&CN Kon Tum nghiệm thu, có thể nhân rộng đối với những khu vực, có điều kiện nuôi tương tự như ở hồ Se San 4.


Đăng KH&PT số 1326 (số 2/2025)