Tăng trưởng GDP quý I đạt 6,79%, thấp hơn so với quý I/2018 và kịch bản ban đầu của Chính phủ, song vẫn cao hơn cùng kỳ các năm 2009-2017. Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức trong các quý II đến quý IV để đạt mục tiêu cả năm 2019.

Đây là nhận định được đưa ra tại Hội thảo có chủ đề “Kinh tế vĩ mô Việt Nam - kiên trì cải cách trong bối cảnh thế giới bất định” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức ngày 19/4 tại Hà Nội.

Sau những kết quả kinh tế-xã hội khá ấn tượng trong năm 2018, Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp đà để bứt phá trong năm 2019, hướng tới hoàn thành mục tiêu kế hoạch cho cả giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nhận diện không ít khó khăn, thách thức để hiện thực hóa kỳ vọng ấy, đặt trong bối cảnh kinh tế quốc tế ngày càng bất định và dư địa cho chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không còn nhiều.

Chính phủ tiếp tục nhấn mạnh ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và sức chống chịu của nền kinh tế. Diễn biến tăng trưởng kinh tế và lạm phát tiếp tục được theo dõi sát, với không ít động thái, thông điệp điều hành xuyên suốt quý I.

TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM nhấn mạnh, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà mở rộng tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng tiềm năng – thể hiện ở xu thế tăng trưởng GDP – vẫn tiếp tục suy giảm. Đà phục hồi tăng trưởng trong những năm qua có một phần quan trọng từ những cải cách thể chế kinh tế nói chung và môi trường kinh doanh nói riêng.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng khá (2,68%); tuy vẫn bị hạn chế bởi dịch tả lợn châu Phi; xuất khẩu thủy sản đối mặt với cạnh tranh lớn hơn từ các quốc gia khác. Khu vực công nghiệp-xây dựng đạt tăng trưởng giá trị gia tăng ở mức 8,63%. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 6,5%.Khu vực doanh nghiệp tiếp tục có sự điều chỉnh mạnh về cơ cấu. Các doanh nghiệp chế biến chế tạo bớt lạc quan hơn về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý I. Cộng đồng doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn về gia nhập thị trường, nhất là gánh nặng “hậu đăng ký doanh nghiệp”, tiếp cận thông tin minh bạch.

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 54,3 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp chung đạt 2,17% trong quý I, giảm nhẹ so với cùng kỳ các năm trước. Việt Nam đang là quốc gia duy nhất của châu Á có mặt trong top 10 nước cao nhất toàn cầu về tỉ lệ nữ doanh nghiệp và tiếp tục duy trì thứ hạng về chỉ số cơ hội và tham gia vào nền kinh tế của phụ nữ.

CPI bình quân tăng 2,63%, chịu ảnh hưởng của các nhân tố: Giảm chỉ số giá nhóm hàng lương thực, thực phẩm; cách thức kiềm chế giá cả còn mang nặng tính “hành chính”; điều chỉnh tăng giá điện từ cuối tháng 3/2019 chưa được phản ánh vào CPI tháng 3. Lạm phát cơ bản bình quân tăng 1,83% cho thấy điều hành chính sách tiền tệ vẫn ổn định và không gây áp lực lên mặt bằng giá.

Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay được giữ ổn định trong quý I/2019, chủ yếu do một số ngân hàng thương mại lớn có xu hướng giảm lãi suất huy động hoặc duy trì lãi suất huy động thấp; thanh khoản của hệ thống ngân hàng khá dồi dào trong khi giải ngân tín dụng chưa tăng mạnh; Fed công bố không tăng lãi suất trong năm. Tổng phương tiện thanh toán tăng 2,67% so với cuối năm 2018 và 10,99% so với cuối quý I/2018. Dư nợ tín dụng đến 20/3 tăng khoảng 2,28%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2018.

Xử lý nợ xấu có thêm chuyển biến. Tỉ giá trung tâm đến cuối quý I tăng 0,68% so với cuối quý IV/2018. Tỷ giá của NHTM và thị trường tự do khá ổn định.

Đáng chú ý, cơ cấu nguồn đầu tư tiếp tục xu hướng chuyển dịch thu hẹp tỉ trọng đầu tư từ khu vực nhà nước và tăng tỉ trọng đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước. Tổng vốn FDI đăng ký đạt 10,8 tỷ USD trong quý I, tăng 86,2% so với cùng kỳ 2018 và cao hơn nhiều so với cùng kỳ những năm gần đây.

Tổng giá trị xuất khẩu đạt 58,86 tỷ USD, tăng 5,3%. Nhập khẩu đạt 57,45 tỷ USD, tăng 8%. Thặng dư thương mại của Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, thấp hơn so với cùng kỳ 2018. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.184,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12%...

Công tác điều hành tài khóa thời gian qua có một số điểm tích cực như: Hiệu quả phối hợp của chính sách tài khóa với các chính sách kinh tế vĩ mô khác được cải thiện đáng kể; cơ cấu lại NSNN ít nhiều đã mang lại hiệu quả tích cực; điều hành chính sách tài khóa đã ít nhiều linh hoạt hơn.

Kết quả cập nhật dự báo cho thấy tăng trưởng kinh tế năm 2019 ước đạt 6,88%. Tăng trưởng xuất khẩu dự báo ở mức 9,02%. Thặng dư thương mại ở mức 3,1 tỷ USD. Mức tăng giá tiêu dùng trong năm là khoảng 3,71%.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đặc biệt nhấn mạnh đến bán cổ phần lần đầu ra công chúng gặp khó khăn; chất lượng cổ phần hóa chưa có dấu hiệu cải thiện; thực hiện quy định và chính sách cổ phần hóa vẫn còn vướng mắc, nhất là xử lý vấn đề đất đai, xử lý tài chính; trách nhiệm người đứng đầu trong thực hiện kế hoạch cổ phần hóa; thực thi kỷ luật hành chính chưa nghiêm và cơ chế xử lý vi phạm không rõ ràng; thay đổi thể chế, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước có tác động đến tiến độ cổ phần hóa DNNN.

Diễn biến kinh tế vĩ mô trong quý II đến quý IV/2019 có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố bên ngoài, bao gồm rủi ro suy thoái của kinh tế Mỹ gia tăng; căng thẳng thương mại ở khu vực khó hạ nhiệt; nhu cầu phê chuẩn sớm EVFTA có thể giảm bớt; hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể phải đối mặt với nhiều hàng rào kỹ thuật hơn ở các thị trường nước ngoài, kể cả thị trường CPTPP; thị trường tài chính quốc tế có thể còn phản ứng nhanh và quá mức trước những diễn biến bất lợi, đặc biệt liên quan đến các vấn đề địa chính trị.

Việt Nam vẫn phải xử lý không ít thách thức, chủ yếu là về nền tảng kinh tế vi mô. Tình trạng nợ đọng văn bản quy phạm pháp luật còn phổ biến, dẫn tới tình trạng tư duy, chính sách mới chậm đi vào thực hiện. Ngay cả với CPTPP, các hướng dẫn và sửa đổi luật còn chậm thực hiện, dù lãnh đạo cấp cao và doanh nghiệp kỳ vọng khá nhiều. Quan trọng hơn, hiệu lực thực thi chính sách vẫn chậm được cải thiện. Việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhắc lại những nhóm giải pháp trọng tâm về phát triển kinh tế-xã hội phần nào cho thấy sự sát sao, song mặt khác cũng cho thấy các nhóm giải pháp chưa được nhận thức hoặc thực hiện đầy đủ.