Lần sửa Luật Giáo dục đại học năm nay chính là cơ hội tốt để xóa nhòa ranh giới giữa cơ sở giáo dục đại học và viện/trung tâm nghiên cứu, qua đó thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong trường đại học.

Hệ thống giáo dục đại học và khoa học ở nước ta vốn được thiết kế theo mô hình Xô-viết, trong đó hệ thống cơ sở giáo dục đại học và viện/trung tâm nghiên cứu được phân tách thành hai nhóm với hai nhiệm vụ riêng rẽ: cơ sở giáo dục đại học thực hiện giảng dạy, viện/trung tâm thực hiện nghiên cứu.

Các nhà làm chính sách đã nhận ra những bất hợp lý của mô hình trên, bằng chứng là Luật Giáo dục đại học 2012 công nhận viện nghiên cứu có đào tạo tiến sĩ là một loại hình cơ sở giáo dục đại học; ngược lại, Luật KH&CN 2013 xem các trường đại học như là đơn vị nghiên cứu khoa học.

Mặc dù vậy, trong quá trình triển khai, vẫn còn nhiều ràng buộc, vướng mắc khiến cho ranh giới giữa trường-viện/trung tâm vẫn còn hiện hữu.

Linh hoạt tiêu chí quy đổi

Về mặt truyền thống, giảng viên ở cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ giảng dạy là chính. Luật Giáo dục đại học 2012 và các văn bản dưới luật này cũng như Dự thảo sửa đổi Luật Giáo dục đại học đã đưa thêm nội dung nghiên cứu như là một nhiệm vụ bắt buộc của giảng viên.

Một cách lý tưởng, chúng ta nên gộp hai chức danh này với nhau thành giảng viên – nghiên cứu viên bởi hai chức danh này thực chất là một. Trong điều kiện hiện tại, khi chưa gộp được thì ít nhất từ phía Luật Giáo dục đại học (và các văn bản dưới Luật) cần đưa ra được các điều khoản mở nhằm “giải phóng năng lực nghiên cứu của giảng viên”.

Các nghiên cứu viên trong quá trình tạo ra thiết bị làm lạnh kích thước micro Micro peltier cooler – một sản phẩm tiêu biểu của trung tâm Nano và Năng lượng thuộc Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Loan Lê

Cụ thể, theo quy định hiện hành, giảng viên phải có 270 giờ giảng/năm; điều này hạn chế những giảng viên có khả năng nghiên cứu tốt bởi vẫn bị phân tâm bởi công việc lên lớp. Việc quy đổi kết quả nghiên cứu và giờ hướng dẫn nghiên cứu sinh thành giờ giảng đâu đó đã được một số trường thực hiện nhưng vẫn chưa được thể chế hoá một cách chính thức. Đây là một nội dung cần có sự can thiệp của Luật Giáo dục đại học.

Tương tự, cũng không nên khống chế một giáo sư hướng dẫn bao nhiêu nghiên cứu sinh, nếu ai có điều kiện năng lực hướng dẫn nhiều thì nên khuyến khích, quan trọng là phải đảm bảo chất lượng đầu ra, nhất là đầu ra thể hiện qua số công bố quốc tế như quy định hiện hành.

Ngoài ra, cần có chính sách khuyến khích các nghiên cứu sinh và học viên cao học tham gia giảng dạy ngay tại chính nơi mình đang học. Việc này một mặt tạo điều kiện cho nghiên cứu sinh và học viên cao học làm việc toàn thời gian trong trường (thay vì vừa học, vừa làm như thực trạng phổ biến hiện nay); mặt khác cũng giảm bớt áp lực giảng dạy cho giáo sư hướng dẫn để tập trung thời gian cho nghiên cứu, nếu cần thiết.

Nên có “NAFOSTED” cho giáo dục đại học

Dự thảo Luật Giáo dục đại học cũng bổ sung quy định: Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với các bộ ngành khác quy định hướng dẫn các cơ sở liên quan thực hiện các hoạt động KH&CN.

Hoạt động nghiên cứu KH&CN nói chung và nghiên cứu KH&CN trong các cơ sở đào tạo đại học hiện đang bị chồng chéo trong quản lý, cụ thể Bộ KH&CN quản lý đề tài, dự án nghiên cứu và Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất, tạo nên thực trạng nơi có phòng thí nghiệm tốt lại không có đề tài, hoặc nơi có đề tài nhưng không có phòng thí nghiệm. Sự phân mảnh này đang thực sự làm khó người nghiên cứu khoa học nói chung và giảng viên nghiên cứu khoa học nói riêng.

Nói cách khác, đang có sự lệch pha giữa quản lý cơ sở vật chất phòng thí nghiệm và quản lý đề tài.

Để giải quyết chỗ vênh này, có lẽ giáo dục đại học cần một quỹ với cơ chế hoạt động tương tự NAFOSTED, nhưng nội dung cấp tài trợ bao gồm cả cấp kinh phí nghiên cứu lẫn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm. Đồng thời, các nhà làm chính sách cũng có thể hoạch định các lĩnh vực đầu tư ưu tiên trọng điểm trong các giai đoạn xác định nhằm thực sự tạo ra các ngành, chuyên ngành với lực lượng đủ mạnh và đạt trình độ khu vực và quốc tế.

(Tác giả có tham khảo các ý kiến của đại biểu phát biểu tại Hội nghị “Phát triển KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2017-2025”, đồng tổ chức giữa Bộ KH&CN và Bộ GD&ĐT tháng 7/2017.)