Chúng ta nên nhìn nhận về hiện tượng “dịch vụ chất lượng cao/giá cao” trong các cơ sở giáo dục công lập hiện nay như thế nào? Liệu có nên khuyến khích? Nếu có, thì vì sao, và nếu không, thì có giải pháp nào khác?

Nói đến chủ nghĩa xã hội (CNXH) và các nước theo CNXH, người ta thường nghĩ ngay tới một ưu điểm nổi bật: giáo dục miễn phí cho toàn dân. Nhưng kinh tế thị trường đã tạo ra một bức tranh hoàn toàn khác.

Trong khi sự hình thành khu vực kinh tế tư nhân và mở rộng giao thương quốc tế tạo ra tầng lớp giàu hoặc rất giàu ở các đô thị, thì giáo dục công vẫn tiếp tục vận hành theo những nguyên tắc của thời bao cấp, tức là trả lương cho người thầy còn rất thấp như cái thời hàng hóa được phân phối theo tiêu chuẩn. Dĩ nhiên với cách trả lương và vận hành đó, trường công không thể nào đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân.

Bất cập cung - cầu nói trên đã và đang được giải quyết một cách tự phát bằng hai con đường: trường tư ra đời, hoạt động như một doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; và trường công đẻ ra nhiều hình thức để tìm kiếm nguồn thu, bắt đầu một cách đơn lẻ như tổ chức học thêm, và nay đang tiến tới chỗ được hệ thống hóa dưới hình thức có tổ chức: lớp chất lượng cao, chương trình song bằng ở các trường phổ thông công lập; chương trình liên kết quốc tế/ chương trình chất lượng cao ở các trường đại học.

Ranh giới công - tư đang mờ dần?

Có một thực tế là ranh giới công - tư trong nhiều lĩnh vực ở các nước có chỗ đang mờ dần. Một ví dụ dễ thấy là trong giáo dục đại học (GDĐH) công. Trước đây ranh giới giữa các trường đại học công và tư rất rõ ràng: trường công lập thuộc sở hữu công, hoạt động dựa vào nguồn ngân sách của nhà nước, quản trị theo cơ chế tự chủ dựa trên Hội đồng Trường, hoặc do nhà nước quản lý trực tiếp, giảng viên được xem như công chức. Trường tư do nguồn vốn tư nhân xây dựng, thuộc sở hữu tư nhân hoặc sở hữu cộng đồng, có lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, không dựa vào nguồn tài trợ của ngân sách tuy có thể được nhà nước hỗ trợ dưới nhiều hình thức.

Ngày nay, ranh giới công - tư đối với đại học không rõ rệt như vậy. Ví dụ, mặc dù hình thành từ nguồn vốn tư nhân, nhưng vì là hiến tặng và thuộc sở hữu cộng đồng, các trường đại học tư phi lợi nhuận ở Hoa Kỳ rất giống với đại học công truyền thống về nhiều mặt, đặc biệt là về đặc điểm sứ mạng phục vụ lợi ích công và về mô hình quản trị.

Trong khi lại có những trường công mà tỉ lệ ngân sách cấp rất thấp so với tổng kinh phí hoạt động của trường, chẳng hạn ở Đại học Virginia, con số đó là 8%. Katharine C. Lyall, một nhà kinh tế học và Hiệu trưởng danh dự của Đại học Wisconsin, từng thốt lên rằng “Với mức độ tài trợ như thế, chúng ta phải tự hỏi, đại học công có nghĩa là gì”.1

Nói cách khác, các trường đại học công ở Hoa Kỳ đang bị tư nhân hóa theo nghĩa, khi các doanh nghiệp và các nhà tài trợ cung cấp tiền cho các trường, họ chắc chắn sẽ chi phối các trường đại học công vốn có sứ mạng phục vụ lợi ích công. Các trường hoạt động dưới sự kiểm soát của họ có thể phục vụ lợi ích công, mà cũng có thể không. Vì thế, mặc dù xét về mặt sở hữu, các trường này vẫn là đại học công, nhưng trong thực tế thì phức tạp hơn nhiều.

Ông Mark Field, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Anh phụ trách châu Á và khu vực Thái Bình Dương dự giời tại một lớp học theo chường trình song bằng ở Trường THPT Chu Văn An, Hà Nội, tháng 1/2018. Ảnh: Nhân Dân

Thêm vào đó là xu hướng doanh nghiệp hóa các trường đại học công, biến các trường thành những thực thể độc lập, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, mà ví dụ nổi bật là Nhật Bản và Singapore. Những trường này có thể vẫn nhận kinh phí nhà nước cấp nhưng dưới dạng hợp đồng, chứ không phải phụ thuộc và chịu chi phối hoàn toàn như cách làm truyền thống.

Hiện tượng nhiều trường đại học công lập ở Trung Quốc hay Việt Nam tổ chức các khóa đào tạo thu phí theo giá thỏa thuận của thị trường cũng được các nhà nghiên cứu nhìn nhận như một hình thức “tư” trong “công” (Priest, D. M., & John, E. P. S. (Eds.). 2006).

Song có một điều cần khẳng định: những thay đổi trên đây chủ yếu là nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ sở công lập, vì nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các trường cần có sự độc lập và linh hoạt trong việc quyết định con đường và cách làm của mình để đạt hiệu quả tốt nhất. Nó hoàn toàn không có nghĩa là biến các cơ sở công lập thành của riêng một nhóm người và kiếm lợi cá nhân từ đó.

Trở lại vấn đề ranh giới công - tư trong giáo dục, có lẽ nó cần được phân định dựa trên chức năng của nhà nước là bù đắp cho những thiếu hụt của thị trường nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài của cả xã hội. Trường công sử dụng tiền thuế của toàn dân, vì thế một trong những chức năng chủ yếu cần có là đáp ứng nhu cầu tối thiểu về giáo dục cho người thu nhập thấp, nhằm bảo toàn sự ổn định của xã hội, và tạo ra động lực cho sự dịch chuyển của các giai tầng xã hội, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ.

Liệu những hình thức dịch vụ giá cao/chất lượng cao trong các cơ sở công lập có làm tổn hại đến chức năng này và tạo ra thêm bất công hay không?

Thực tế Việt Nam

Cuộc sống vận hành dựa trên những quy luật nhiều khi không cưỡng được. Khi mức lương nhà nước trả cho người thầy quá thấp, không đủ tái tạo sức lao động, thì tự nhiên sẽ nảy sinh các hình thức để bù đắp.

Nhưng hệ quả của nó là gì? Hiển nhiên, phong bì các loại và thù lao dạy thêm trong nhiều trường hợp đã làm xấu đi nghiêm trọng quan hệ giữa người dạy và người học nếu người học có cảm giác bị “ép uổng”. Những hình thức có tổ chức quy củ, kiểu như các lớp chất lượng cao hay chương trình song bằng ở các trường công khắc phục được nhược điểm ấy. Ở những hình thức này, đối tượng phục vụ được xem như khách hàng, và chấp nhận trả tiền nhiều hơn để được phục vụ tốt hơn, còn người thầy thì được trả lương tương xứng để nâng cao chất lượng dịch vụ. Đó là cách đáp ứng của thực tế cuộc sống trước những bất cập trong việc sử dụng nguồn lực công cho các dịch vụ công.

Vấn đề là các trường công đang sử dụng một phần nguồn lực ngân sách cho các hoạt động dịch vụ ấy. Như thế có phải là cạnh tranh bất bình đẳng với các cơ sở giáo dục tư nhân hay không? Do được dựa một phần vào nguồn lực công (cơ sở vật chất, đất đai, trang thiết bị, lương cơ bản), phí dịch vụ ở trường công có phần thấp hơn các cơ sở tư nhân với chất lượng tương đương.

Chẳng hạn, chương trình song bằng ở cấp THPT đang được triển khai ở trường Chu Văn An và Hà Nội – Amsterdam có học phí là 7,5 triệu đồng/tháng và theo một số phụ huynh, mức này chỉ bằng một nửa so với chương trình học tương đương ở trường tư. Mặt khác, vì phải dành một phần cơ sở vật chất cho hoạt động dịch vụ, số người mà trường công có thể cung cấp dịch vụ giáo dục cơ bản với mức giá chi trả được đối với người thu nhập thấp có thể sẽ bị thu hẹp lại.

Hợp lý nhưng chỉ là giải pháp tình thế

Giáo dục là một vấn đề kinh tế hay một vấn đề xã hội? Một mặt, lĩnh vực này đang là công nghiệp tỉ đô, bởi nó liên quan thiết thân tới từng người trong xã hội, và nó tạo ra/tiêu tốn những nguồn lực khổng lồ của từng gia đình và của mỗi quốc gia. Phải xem nó là một vấn đề kinh tế để quản lý nó một cách hiệu quả.

Nhưng nó cũng lại là một vấn đề xã hội. Trong kinh tế thị trường, cách biệt giàu nghèo là điều không thể tránh khỏi, và việc bảo đảm dịch vụ chất lượng cao cho tất cả mọi người theo nhu cầu thay vì theo khả năng chi trả là điều bất khả thi. Nhưng nếu một bộ phận lớn người dân không được thụ hưởng dịch vụ giáo dục ở mức độ cơ bản, thì hệ quả sẽ là chất lượng nguồn nhân lực giảm sút, bất công xã hội giãn rộng, tạo ra tiền đề cho bất ổn.

Việc tổ chức các dịch vụ thu phí cao trong các cơ sở công lập tuy hợp lý nhưng chỉ là giải pháp tình thế trong hiện tại, không thực sự giải quyết được các bất cập. Vì thế cần một tư duy khác: tạo điều kiện cho khu vực tư trong giáo dục phát triển, khích lệ người giàu sử dụng các dịch vụ chất lượng cao giá cao do tư nhân cung cấp, còn nhà nước thì tập trung cung cấp dịch vụ với chất lượng cơ bản ở mức giá mà bộ phận lớn người dân có khả năng chi trả.

Điều này có thể áp dụng đối với dịch vụ giáo dục phổ thông. Còn GDĐH thì có hơi khác. GDĐH không chỉ đáp ứng những nhu cầu trước mắt của cá nhân và xã hội, mà còn là đầu tư cho tương lai của quốc gia, nên vẫn cần nhà nước đầu tư có trọng điểm nhằm xây dựng những trường đại học tốt thực sự để phục vụ cho những mục tiêu dài hạn và bảo đảm chỗ học cho những người xuất sắc bất kể khả năng chi trả của họ.

Vì ngân sách không đủ để bao cấp cho tất cả các trường đại học công ở mức tốt nhất, sẽ cần có một hệ thống đa dạng: bên cạnh những trường được bao cấp và đầu tư mạnh mẽ, cần những trường công tự chủ tài chính, dựa vào nguồn thu từ người học và các nguồn thu tự tìm kiếm khác để phát triển chất lượng.

Xây dựng các trường tinh hoa ở bậc đại học là việc đòi hỏi nguồn vốn lớn và là đầu tư dài hạn, vì thế nó nên là nhiệm vụ chính của nhà nước. Điều đó không có nghĩa là tư nhân không thể tạo ra những trường chất lượng cao. Nhưng không thể chỉ dựa vào tư nhân và chờ đợi họ tạo ra những trường như vậy.

Ở nước nào cũng vậy, người ta mong đợi nhà nước thể hiện vai trò ở những việc mà tư nhân không làm được, hoặc chưa đủ điều kiện để làm. Đó là lý do nhà nước trở thành cần thiết, không thể thiếu và là cách làm cho nhà nước trở thành chính danh và hiệu quả.