Nếu những bất cập về cơ chế quản lý được tháo gỡ thì việc hợp tác của Việt Nam với Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna JINR (Nga), nơi Việt Nam phải đóng niêm liễn hàng năm, sẽ có cơ hội mở rộng ra ngoài phạm vi đào tạo như bấy lâu nay.


Không chỉ là nơi chỉ nghiên cứu khoa học hạt nhân


Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna JINR (Nga) là một viện nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực như: vật lý lý thuyết (lý thuyết chất rắn, lý thuyết trường, lý thuyết quang học, lý thuyết hạt nhân, toán cho vật lý,…), vật lý hạt nhân (dùng neutron và các hạt tích điện từ với dải năng lượng rộng), vật lý năng lượng cao, vật lý neutrino, khoa học vật liệu, hóa học, thiết kế chế tạo máy gia tốc, sinh học và y sinh, môi trường, công nghệ tin học,…

80% kinh phí hoạt động hằng năm của Dubna là từ Chính phủ Nga (trước những năm 1990 là Liên Xô) và 20% còn lại từ kinh phí đóng góp của 18 quốc gia thành viên và các nước cộng tác viên.

Tương ứng với số kinh phí đóng góp, các nước thành viên được cử cán bộ của mình đến JINR làm việc, ví dụ Việt Nam có thể cử tối đa 30 đến 40 người làm việc dài hạn.

Với các cán bộ làm việc dài hạn (từ 3 tháng trở lên), JINR sẽ ký hợp đồng làm việc và trang trải toàn bộ kinh phí đi lại, bảo hiểm và lương hằng tháng như các cán bộ của Nga. Viện sẽ bố trí nhà ở và cấp các khoản phúc lợi khác.

Cán bộ nghiên cứu của các nước thành viên được sử dụng các thiết bị nghiên cứu rất hiện đại đã được đầu tư trong nhiều năm để phục vụ cho ý tưởng nghiên cứu của mình một cách bình đẳng như với bất kỳ nhà nghiên cứu nào ở đó; đồng thời được hưởng chế độ lương bổng tương đương với họ.

Lịch sử hơn 60 năm hợp tác

Trả lời phỏng vấn trên Tia Sáng mới đây, GS. TS. Lê Hồng Khiêm - Viện trưởng Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), nhận định, kết quả tốt nhất mà Việt Nam đã thu được sau hơn 60 năm là thành viên chính thức của JINR, chính là đào tạo cán bộ.


Đoàn cán bộ của Việt Nam trong chuyến làm việc tại Viện Dubna về hợp tác đào tạo, nghiên cứu.

Nhờ cử cán bộ tham gia vào các nhóm nghiên cứu của Nga và của các nước thành viên - do trình độ khoa học còn thấp nên Việt Nam chưa thể thành lập các nhóm nghiên cứu riêng - Việt Nam đã có được một lực lượng cán bộ xuất sắc, trong đó phần lớn là các nhà nghiên cứu đầu ngành như: GS Lê Văn Thiêm (toán học), GS Nguyễn Đình Tứ, GS.VS Nguyễn Văn Hiệu, GS.VS Đào Vọng Đức, GS Cao Chi (vật lý hạt nhân), GS.VS Đặng Vũ Minh (hóa học)…


Tuy nhiên, giai đoạn sau những năm 1990, gần như không có người Việt Nam sang làm việc tại JINR. Nguyên nhân là do nước Nga lúc đó đang ở trong tình trạng perestroika (cải tổ), bản thân họ cũng lúng túng, khủng hoảng kinh tế, đầu tư cho khoa học đi xuống, lương cho cán bộ khoa học thấp dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám. Cũng như nhiều viện nghiên cứu khác ở Nga, nhiều nhà khoa học của Dubna bỏ ra nước ngoài làm việc, máy móc thiết bị lạc hậu…- theo GS. TS. Lê Hồng Khiêm.


Mặt khác, bắt đầu từ những năm 1990, cơ hội kiếm được học bổng nghiên cứu và đi học của các cán bộ Việt Nam ở nước ngoài bắt đầu rộng mở bởi nhiều quốc gia tiên tiến từ châu Âu đến Nhật Bản, Hàn Quốc… tăng cường cấp học bổng cho Việt Nam. Vì thế, đa số những người giỏi ở Việt Nam chủ yếu sang những nước đó nghiên cứu, học tập chứ không còn sang Nga như trước nữa. Giai đoạn đó kéo dài hơn 10 năm.


Kể từ sau năm 2013, Việt Nam bắt đầu gửi lại cán bộ sang JINR vẫn với mục tiêu chính là đào tạo lực lượng cán bộ khoa học nhưng trong một hai năm trở lại đây, bắt đầu xuất hiện một vài đề tài đăng ký ở Việt Nam sử dụng thiết bị nghiên cứu của JINR, GS. TS. Lê Hồng Khiêm cho biết và dẫn ra ví dụ Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên mang các sản phẩm nghiên cứu về thực phẩm chức năng cho phi công sang phòng thí nghiệm công nghệ sinh học JINR; hoặc các nhà nghiên cứu vật liệu mới ở Đại học Duy Tân, Đại học Khoa học Thái Nguyên, Viện Vật lý, Viện Khoa học vật liệu cũng mang sang sản phẩm sang để khảo sát các tính chất trên những thiết bị ở đó... Tuy nhiên, những đề tài như vậy còn rất đơn lẻ.


Làm gì để khai thác hiệu quả cơ thế thành viên?


Vì Chính phủ Việt Nam phải đóng niên liễm hằng năm vào JINR nên các nhà khoa học phải có trách nhiệm khai thác tốt các thiết bị nghiên cứu và chất xám của JINR để góp phần đẩy mạnh sự phát triển của khoa học Việt Nam. Thế nhưng do một số bất cập về cơ chế quản lý, các cán bộ khoa học có kinh nghiệm của Việt Nam không muốn đến JINR làm việc và do vậy không có các nhóm nghiên cứu của Việt Nam tại JINR. Các bạn trẻ đến Dubna chỉ có thể tham gia vào các nhóm nghiên cứu nước ngoài.


Theo GS. TS. Lê Hồng Khiêm, cần có quy định riêng cho các cán bộ Việt Nam làm việc tại đây, cụ thể: xem các cán bộ khoa học của Việt Nam đang làm việc tại JINR như đang làm việc tại phòng thí nghiệm ở Việt Nam và được hưởng đầy đủ các chế độ như ở Việt Nam, đặc biệt vẫn được đăng ký các đề tài nghiên cứu do ngân sách tài trợ. Điều này sẽ giúp cho các cán bộ khoa học có kinh nghiệm đến Dubna làm việc và có thể xây dựng các nhóm nghiên cứu khoa học của Việt Nam tại đây.

Đồng thời cho phép các cán bộ Việt Nam dùng kinh phí đề tài để trang bị những dụng cụ nghiên cứu cần thiết tại JINR. Mặc dù tại JINR có những thiết bị nghiên cứu lớn và các nhóm nghiên cứu có thể sử dụng chung, tuy nhiên các dụng cụ nghiên cứu của từng nhóm phải tự sắm bằng kinh phí của chính phủ mình.