Giáo dục mở được thiết kế để mở rộng khả năng tiếp cận việc học tập so với giáo dục chính quy thông thường, bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển nguồn tư liệu giáo dục mở trong mọi môi trường học tập.

Tính chất mở này nhấn mạnh vào sự linh hoạt của hệ thống, giảm thiểu những rào cản do tuổi tác, địa điểm, thời gian và tình trạng kinh tế đối với người học.
Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều đề án, công việc được phê duyệt và triển khai liên quan đến nội dung trên trong Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, các nhà khoa học tiếp tục làm rõ các khái niệm khoa học về giáo dục mở ở nhiều góc độ khác nhau, từ triết lý đến khái niệm, nhận xét tình hình, thực trạng, giải pháp… Nhưng để đi sâu và hiểu rõ hơn bản chất, chúng ta cũng cần thiết có sự tìm hiểu về triết lý, nền tảng của giáo dục mở và những lợi ích của nó đem lại.

Xóa bỏ các rào cản

Nhìn chung, các định nghĩa này đều cho rằng giáo dục mở (GDM) là việc loại bỏ các rào cản để người học tiếp cận được các tài nguyên giáo dục, các tài nguyên phục vụ cho việc dạy, và việc nghiên cứu, hay rộng lớn hơn là để tiếp cận được nền tri thức của nhân loại. Bằng việc loại bỏ các rào cản tiếp cận tới tri thức đó, cơ hội được giáo dục sẽ trở nên sẵn sàng cho tất cả người học bất kể họ là ai và bất kể tình trạng kinh tế của họ ra sao. GDM được thiết kế để mở rộng khả năng tiếp cận việc học tập so với giáo dục chính quy thông thường, bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển nguồn tư liệu giáo dục mở trong mọi môi trường học tập. Tính chất mở này nhấn mạnh vào sự linh hoạt của hệ thống, giảm thiểu những rào cản do tuổi tác, địa điểm, thời gian và tình trạng kinh tế đối với người học. Nền tảng tính mở của GDM là Tài nguyên Giáo dục Mở, là các tài nguyên dạy, học và nghiên cứu không có các chi phí và không có các rào cản tiếp cận, cho phép cho phép bất kỳ ai tự do sử dụng, tùy biến thích nghi và chia sẻ tài nguyên đó - bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu. Việc cho phép sử dụng tài nguyên giáo dục mở được định nghĩa theo quy tắc “5R”: người sử dụng được tự do để Giữ lại, Sử dụng lại, Làm lại, Pha trộn và Phân phối lại (Retain, Reuse, Revise, Remix, Redistribute) các tư liệu giáo dục đó.


Hình ảnh sinh hoạt của CLB Robotics Trường ĐH KHTN TP.HCM. Ảnh: Vietnamnet.

Ba trụ cột

Trên thế giới, GDM đang được phát triển với 3 trụ cột: tài nguyên giáo dục mở, các khóa học mở trực tuyến quy mô lớn và các trường đại học mở. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý về mặt triết lý, hệ thống GDM hướng đến một hệ thống giáo dục mở cho phép mọi thành phần thuộc hệ thống giáo dục và cả xã hội tham gia vào hệ thống với tính quyết định. Triết lý này có liên hệ chặt chẽ với triết lý của Đại học mở (Open University) của Vương quốc Anh, với 4 nguyên tắc cốt lõi: "mở cho người học, mở về địa điểm, mở về phương pháp và mở về ý tưởng" (Open to People, Open to Places, Open to Methods and Open to Ideas). Trong những năm gần đây, một số Đại học mở đã bổ sung thêm nguyên tắc "mở về chương trình học" (open curriculum), cho phép sinh viên thiết kế chương trình dẫn đến văn bằng của mình. Khía cạnh triết lý này gắn liền với các nghiên cứu về phương pháp giáo dục mới, như của John Dewey (1859 - 1952), trong đó nhấn mạnh sự lựa chọn và định hướng tự do của người học sẽ giúp nâng cao chất lượng việc học, hay của Jean Piaget (1896 - 1980), trong đó nhấn mạnh người học chính là kiến trúc sư tạo nên sự gia tăng về tri thức của mình. Như vậy, về mặt triết lý, GDM không chỉ để nhiều người có thể tiếp cận, mà còn phải để người học có thể chủ động tham gia quá trình giáo dục mang lại nhiều tác động tích cực đến việc quốc tế hoá nền giáo dục đại học của một quốc gia. Theo Jokisalo and Riu (2009), phương pháp giáo dục mới này là phương tiện nhanh và thuận tiện nhất để có thể tiếp cận và thoả mãn được nhu cầu tri thức của nhóm học viên có nhu cầu học không chính thức và các đối tượng này chiếm đến 90% trong toàn xã hội. Những nỗ lực thực hiện trong các dự án GDM sẽ là công cụ để thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong giáo dục cũng như nuôi dưỡng sự phát triển, áp dụng công nghệ học tập mở, công nghệ di động và điện toán đám mây8 (Jemni và Khribi). Khả năng truy cập, tính linh hoạt, sự tương tác, tính cá nhân hóa, tính minh bạch, nội dung mở và tính chia sẻ, phương tiện truyền thông, tăng cường sư phạm, tính phản ánh và khả năng học tập xã hội trong GDM là các chỉ số chính để cải thiện tình trạng giáo dục hiện tại cũng như đảm bảo chiến lược hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học trong tương lai (Jemni và cộng sự, 2017).

Yếu tố mở của tài nguyên học tập trong GDM gắn liền và cộng hưởng với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là Internet. Yếu tố mở này đã thể hiện nhiều lợi ích to lớn của nó bao gồm10:

- Tăng cường sự bình đẳng: Mọi người học đều có khả năng tiếp cận như nhau tới các tư liệu học tập với những nội dung phù hợp & cập nhật nhất vì các tài nguyên mở có thể được phân phối tự do cho bất kỳ ai.

- Tiết kiệm chi phí: Tài nguyên mở cho phép các trường hay các quốc gia tiết kiệm chi phí tự tạo ra học liệu của riêng mình, mà chuyển sang đầu tư vào các nhu cầu cấp bách khác trong giáo dục. Việc sử dụng lại một phần hay toàn bộ các học liệu đã có sẵn giúp cho giảng viên tiết kiệm về thời gian để tạo ra các nội dung giảng dạy có chất lượng cao. Tài nguyên mở còn giúp xoá bỏ tình trạng độc quyền trong việc cung cấp học liệu, giúp cho người học tiết kiệm rất nhiều về chi phí mua sắm.

Không chỉ dựa vào tính mở của tài nguyên học tập, GDM với phương châm mở cho sự tham gia của người học và xã hội vào quá trình giáo dục còn có thể đưa lại những lợi ích lớn về chất lượng như sau:

- Thực sự lấy người học làm trung tâm, tạo điều kiện cho nhiều phương thức học tập đa dạng: GDM tạo điều kiện cho sự tham gia của người học vào việc tạo ra tài liệu và chương trình học tập. Người dạy có thể biên soạn các nội dung, tài liệu giảng dạy một cách mềm dẻo, tiến tới phục vụ tốt nhất cho từng cá nhân người học. Người học có thêm nhiều phương tiện học tập chứ không chỉ dựa vào sách giáo khoa và bải giảng.

- Học tập suốt đời: Với phương pháp và học liệu của mình, GDM cho phép người học ở mọi độ tuổi, mọi thành phần xã hội có cơ hội học tập ở mọi lúc, mọi nơi.

- Tăng cường các mối quan hệ trong cộng đồng, tạo ra một xã hội học tập: Mọi người trong cộng đồng, trong xã hội có thể biết và đóng góp vào quá trình giáo dục; và người học đều có khả năng làm việc cùng nhau để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với xã hội để cùng nhau giải quyết các thách thức và thực hiện các mục tiêu chung.

Nền giáo dục của Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức lớn, trong đó có thể kể đến: nhiệm vụ cấp bách “đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo” theo Nghị quyết số 29 để đảm bảo chất lượng con người của đất nước theo kịp được nhu cầu mới của thời đại; sự khó khăn về cơ sở vật chất của nền giáo dục nói chung; sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên và giảng viên; phân hoá ngày càng rõ nét về thu nhập trong xã hội và khoảng cách còn lớn giữa học và hành. GDM với các lợi ích nêu trên có khả năng to lớn giúp Việt Nam giải quyết được các thách thức đó. GDM sẽ giúp đất nước giảm chi phí về học liệu, đặc biệt là sách giáo khoa và giáo trình. GDM cho phép chúng ta tăng cường sự bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, thu hẹp khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, giữa nông thôn và thành thị, góp phần to lớn để thực hiện chức năng xã hội của giáo dục, đảm bảo tính chất Xã hội Chủ nghĩa của hệ thống xã hội của đất nước. GDM phù hợp với triết lý giáo dục mà Việt Nam đang hướng tới, lấy người học là trung tâm, giúp tăng cường sự chủ động và tính sáng tạo của người học. GDM còn cho phép chúng ta liên tục đào tạo mới và đào tạo lại lực lượng lao động đông đảo của đất nước, đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp “Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá”. Do đó, để thực hiện thành công các mục tiêu của giáo dục Việt Nam, chúng ta cần sử dụng tối đa các điểm mạnh và lợi ích của GDM. Không sử dụng và phát triển GDM, Việt Nam sẽ tự làm hạn chế đáng kể quá trình đổi mới nền giáo dục và đảm bảo để chất lượng của giáo dục theo kịp với yêu cầu của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. https://tech.ed.gov/open/
2. https://sparcopen.org/open-education/
3. https://opensource.com/resources/what-open-education
4. http://www.open.ac.uk/about/main/strategy-and-policies/mission
5. Notter, L. E., & Robey, M. C. Open curriculum practices. Nursing outlook, 27(2), 116-21, (1979).
6. Brown, S.J., & Adler, R. P. Open education, the long tail, and learning 2.0. Education review, 43(1), 16-20, (2008).
7. Jokisalo, E., & Riu, A. Informal learning in the era of web 2.0. E-learning Papers, 14(5), (2009).
8. Latchem, C. Open and Distance: Non- formal Educationin Developing Countries, Springer Nature, Springer Nature Singapore Pte Ltd., Singapore, (2018).
9. Jemni, M. & Khribi, K. OpenEducation: from OERs to MOOCs, Springer Nature, Springer-Verlag GmbH Berlin Heidelberg, (2017).