Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ là một vấn đề quan trọng đối với hiệu quả của chương trình nông thôn miền núi, bởi việc đưa tiến bộ khoa học đến với nông dân không đơn giản là chuyện mua bán công nghệ, mà liên quan đến nhiều khâu kỹ thuật khác.

Nhiều giống cây trồng năng suất, hiệu quả cao đã được chuyển giao cho bà con nông dân. Ảnh: VH
Nhiều giống cây trồng năng suất, hiệu quả cao đã được chuyển giao cho bà con nông dân. Ảnh: VH

Thay đổi tư duy sản xuất của người dân

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân, trong 15 năm, chương trình Nông thôn miền núi mà bộ được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì đã huy động được 80 cơ quan KH&CN trung ương và lực lượng cán bộ KH&CN địa phương làm công tác chuyển giao công nghệ.

Từ 845 dự án của chương trình, đã có 2.501 mô hình sản xuất được xây dựng, trở thành mẫu hình về chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN có tính đại diện cho địa bàn triển khai do chính người dân được tập huấn kỹ thuật thực hiện. Các lĩnh vực trồng trọt (cây rau, hoa, cây công nghiệp…), chăn nuôi (gia súc, gia cầm, ong mật, chim yến, rắn hổ mang…), thủy sản, bảo quản, chế biến sau thu hoạch, công nghệ sinh học… đều đã được dự án phủ kín.

Theo Văn phòng chương trình, dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm tu hài” do Công ty TNHH Đỗ Tờ chủ trì thực hiện tại Quảng Ninh là một thành công tiêu biểu. Dự án đã tiếp nhận quy trình sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm tu hài tại Vân Đồn, hình thành nghề nuôi tu hài chất lượng cao tại đây, tạo việc làm ổn định và thu nhập khá cho hơn 120 lao động; doanh thu mỗi năm tăng từ 2 tỷ lên 10 tỷ đồng. Dự án kết thúc, công ty tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất giống và nuôi thương phẩm, cung cấp giống cho 300-500 hộ nuôi tu hài.

Còn dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng vụ thu đông trên vùng đất cát Hà Tĩnh” đã giúp người dân thay đổi tư duy sản xuất, mạnh dạn chuyển từ nuôi tôm một vụ sang 2-3 vụ, tạo việc làm cho hàng trăm lao động nông nhàn vụ thu đông với mức lương 4-5 triệu đồng/tháng.
Chương trình đã chọn được công nghệ tiên tiến, phù hợp, xây dựng những mô hình ứng dụng KH&CN hiệu quả hướng vào giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng với địa phương như: Tăng năng suất, chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp có tiềm năng về thị trường và phát huy lợi thế từng vùng; hỗ trợ doanh nghiệp ở nông thôn đổi mới công nghệ hoặc hỗ trợ hình thành các nghề mới nhằm phát huy lợi thế nghề truyền thống.

Cần lựa chọn công nghệ phù hợp

Tiến sĩ Đặng Văn Đông - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả - cho biết, trong 15 năm qua viện đã chuyển giao cho người dân ở 22 tỉnh, thành phố trong cả nước các giống mới và quy trình nhân giống, trồng, chăm sóc, thu hái bảo quản. Vì thế, ông rất hiểu các yếu tố quan trọng giúp chuyển giao công nghệ thành công cho nông dân. TS Đông cho rằng, để chương trình triển được khai hiệu quả hơn trong giai đoạn tiếp theo, không thể không lưu ý đến những yếu tố này.

Thứ nhất, khác với các nước có nền kinh tế phát triển, đặc thù ở Việt Nam là đối tượng thụ hưởng các thành quả khoa học đại đa số là người nghèo, tập trung nhiều ở các vùng nông thôn, miền núi.

“Đã là dân nghèo thì ít có cơ hội tiếp xúc chứ chưa nói tới chuyện được ứng dụng kết quả mà các nhà khoa học nghiên cứu ra. Ngược lại, các nhà khoa học với kinh phí đầu tư của Nhà nước có hạn, lương thấp, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn… cũng rất khó có điều kiện thương mại hóa hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu của mình tới trực tiếp cho người dân” - TS Đặng Văn Đông chia sẻ.

Do đó, lựa chọn công nghệ và cơ quan chuyển giao công nghệ là khâu cực kỳ quan trọng, quyết định rất lớn tới hiệu quả, khả năng thành công của các dự án cũng như của cả chương trình Nông thôn miền núi.

“Công nghệ chuyển giao cho nông dân phải phù hợp (hoặc điều chỉnh để phù hợp) với địa phương, vùng, miền và đối tượng tiếp nhận dự án. Có thể cơ quan khoa học nghiên cứu được rất nhiều bộ giống, quy trình công nghệ nhưng không phải tất cả các sản phẩm đó đều chuyển giao được. Phải tùy theo điều kiện sinh thái, tập quán canh tác, khả năng kinh tế, thị trường của từng địa phương để lựa chọn công nghệ phù hợp tiến hành chuyển giao, có như vậy hiệu quả mới cao và mới bền vững” - TS Đông nói.

Chuyên gia này cũng cho rằng, cơ quan chuyển giao công nghệ cần phải có công nghệ do chính mình nghiên cứu, sáng tạo ra, bởi chỉ có tác giả hoặc nhóm tác giả tạo ra công nghệ mới hiểu sâu về nó để thực hiện chuyển giao hiệu quả nhất, đặc biệt là những công nghệ khó hoặc đòi hỏi tính chuyên môn sâu. Dĩ nhiên, những công nghệ này phải được thẩm định hoặc được cấp có thẩm quyền phê duyệt, công nhận.

Mặt khác, theo TS Đông, kinh nghiệm trong chuyển giao công nghệ cũng là một yếu tố không thể xem nhẹ. Thực ra, các dự án chuyển giao công nghệ không đơn giản là chỉ việc bán công nghệ thông thường, mà còn liên quan rất nhiều đến việc xây dựng thuyết minh, giải trình kinh phí, lập hồ sơ theo báo cáo sơ kết, tổng kết…

Thông thường, nhiều người chủ trì dự án không có kinh nghiệm làm việc đó vì họ chỉ được tiếp nhận một vài dự án, nên phải dựa vào các cơ quan chuyển giao công nghệ. Nếu cơ quan chuyển giao công nghệ cũng lúng túng, không có kinh nghiệm thì dự án sẽ rất khó khăn trong việc triển khai.